Đây là phiên bản mở rộng của cuốn từ điển thiên văn PAC, tôi sẽ cố gắng cập nhật từng từ chuyên môn trong thiên văn cho các bạn theo kiểu sắp xếp Anh-Việt. Theo đó, tôi sẽ sắp vần theo từ tiếng Anh, sau đó là từ tiếng Việt và phần giải thích từ đó. Ở phiên bản này, tôi sẽ tìm các thông tin có trên mạng để cung cấp kiến thức cặn kẽ hơn các từ đã có trong từ điển thiên văn trên.
//Vì được lấy từ khắp nơi trên mạng nên có nhiều kiến thức người viết không chắc nên dễ dẫn đến tình trạng viết sai. Vì vậy nếu phát hiện ra lỗi, các bạn hãy post ngay trong topic, sau khi cập nhật lỗi, tôi sẽ xóa bài viết đó đi.
Cảm ơn vì sự hợp tác của mọi người
:Mloa_loa: Từ nay về sau, tất cả các từ có tên hiếm gặp trong tiếng Việt và độ tin cậy không cao thì sẽ được chuyển thành màu đỏ để mọi người cẩn thận khi đọc chúng. Mong mọi người nếu tìm ra được các kiến thức chắc chắn về các từ này sẽ cm trong topic cho mọi người cùng biết. Sau đó tui sẽ sửa lại cho phù hợp với nội dung của topic, tất cả những người có đóng góp đều được vinh danh
Sự tăng trưởng là từ dùng để chỉ ít nhất là 2 quá trình trong thiên văn.
Thứ nhất, phổ biến nhất, sự tăng trưởng là sự tăng khối lượng của các thiên thể nặng bằng cách hấp dẫn các vật chất xung quanh, điển hình là vật chất khí (gaseous matter) trong đĩa bồi thêm (accretion disc). Đĩa bồi thêm thường có ở sao nhỏ hơn hoặc tàn tích của sao trong một hệ sao nhị phân gần (close binary), hoặc ở hố đen hay khu vực tâm thiên hà. Có một vài nguyên nhân động lực làm cho các khí bụi quay xung quanh thiên thể lớn mất năng lượng và rơi và thiên thể.
Thứ hai, sự tăng trưởng trong thiên văn còn có ý nghĩa tương tự như trong khoa học khí quyển (atmospheric science). Trong thuyết tinh vân, sự tăng trưởng là quá trình xảy ra do sự va chạm và dính lại với nhau của các hạt khí bụi nhỏ tạo, thường xảy ra trong các hệ đĩa tiền hành tinh, tạo ra các planetesimal (tạm dịch là hạt giống hành tinh), từ đó chúng dùng lực hấp dẫn của mình để hấp dẫn các hạt bụi nhỏ khác.
Việc dùng thuật ngữ đĩa bồi thêm cho các đĩa tiền hành tình thường dẫn đến việc lầm lẫn với sự tăng trưởng của chính hành tinh đó, mặc dù trong nhiều trường hợp cả hai quá trình tăng trưởng có diễn ra đồng thời.
---->từ này rất khó dịch vì có quá nhiều kiến thức và từ tiếng Anh lạ, không có trong từ điển, tôi buộc phải dựa trên những tiền tố có sẵn để tìm từ tiếng Việt sát nghĩa nhất, nếu ai biết rõ về những từ lạ được nhắc tới trong bài xin cm để mọi người cùng biết<---------
Achondrite-Thiên thạch không hạt
Đây là một loại thiên thạch đá mà thành phần của nó tương tự với đất bazan (terrestrial basalt) hoặc đá sâu (plutonic rock). Các thiên thạch không hạt rất dễ nhận ra bằng lớp vỏ và khoáng chất khá đặc trưng do những vết cháy qua quá trình nung chảy và kết tinh lại.
Các thiên thạch không hạt chiếm khoảng 8% các thiên thạch rơi vào Trái Đất, đa phần trong số đó (khoảng hai phần ba) là thiên thạch loại HED (HED meteorite), có nguồn gốc từ lớp vỏ của tiểu hành tinh 4 Vesta. Còn lại là xuất phát từ Sao Hỏa, Mặt Trăng và một số tiểu hành tinh không xác định khác. Việc phân loại các thiên thạch không hạt dựa trên phân tích tỷ lệ thành phần hóa học của Fe/Mn và các đồng vị Ôxi O17/O18, chúng được coi là "dấu vân tay" của các thiên thể mẹ của các thiên thạch này.
Hình của thiên thạch không hạt loại Eucrite (là một nhánh của loại HED) lấy từ trận mưa sao băng Millbillillie.
Click vào hình đễ xem hình chất lượng lớn hơn.
Một ångström hay angstrom (Ký hiệu Å) là đơn vị không thuộc SI được thế giới thừa nhận, có giá trị bằng 0,1 nanomet hay 1×10−10 met. Đôi khi nó được dùng để biểu thị kích thước của các nguyên tử, độ dài của các liên kết hóa học và quang phổ của ánh sáng thấy được, và độ lớn của các linh kiện trong vi mạch. Nó được dùng khá phổ biến trong cấu trúc sinh học. Nó được đặt tên theo nhà khoa học Anders Jonas Ångström.
Lịch sử
Angstrom được đặt theo tên nhà vật lý học người Thụy Điển là Anders Jonas Ångström (1814–1874), ông là một trong những người lập ra ngành quang phổ học và cũng được biết đến là người nghiên cứu vật lý thiên văn, truyền nhiệt, từ trường Trái Đất và bắc cực quang.
Năm 1868, Ångström lập ra bảng quang phổ của bức xạ Mặt Trời trong đó biểu thị bước sóng của các bức xạ điện từ trong bảng quang phổ điện từ theo phân mức một phần mười triệu milimet hay 1×10−10 met. Đợn vị độ dài này sau này được đặt là đơn vị Ångström hay gọi tắt là ångström.
Khoảng thấy được của con người là vào khoảng 4000 ångström (tím) đến 7000 ångström (đỏ đậm) vì vậy tác dụng của đơn vị ångström là nó không mang lũy thừa âm. Vì thang đo này gần với cấu trúc nguyên tử và phân tử nên nó cũng khá thông dụng trong hóa học và tinh thể học.
Mặc dù ban đầu được lập ra cho phù hợp với 1×10−10 met, nhưng với yêu cầu độ chính xác cao khi đo đạc quang phổ, angstrom cần được tính toán chính xác hơn đơn vị met, đơn vị này cho đến năm 1960 vẫn dựa trên độ dài của một thanh kim loại nằm ở Pari. Năm 1907, International Astronomical Union (hội thiên văn quốc tế) đã xác định bước sóng đỏ của nguyên tố cadmium (catmi) trong không khí bằng 6438,46963 đơn vị ångström quốc tế, và nó được công nhận bởi International Bureau of Weights and Measures (cục đo lường quốc tế) năm 1927. Từ năm 1927 đến 1960, đơn vị angstrom được coi là đơn vị đo độ dài thứ hai trong quang phổ học, hoàn toàn độc lập với đơn vị met, nhưng năm 1960 đơn vị met được định nghĩa lại theo thuật ngữ quang phổ học, và angstrom trở thành ước số của met.