II THUYẾT TƯƠNG ÐỐI HẸP (SPECIAL RELATIVITY)
1. Những cơ sở thực nghiệm
Các phương trình Maxwell về sóng điện từ cho thấy ánh sáng truyền theo bất kì mọi hướng trong chân không với cùng vận tốc là [latex]c=\frac{1}{\sqrt{\varepsilon _{0}.\mu _{0}}} = 2,97.10^{8} m/s[/latex] . Đó là vận tốc giới hạn của mọi vận tốc.
Vấn đề đặt ra là ánh sáng lan truyền như thế nào trong một hệ quy chiếu quán tính đang chuyển động so với hệ quy chiếu đứng yên? Nếu ánh sáng truyền từ hệ S dọc theo chiều dương Ox với vận tốc là c, đồng thời hệ S' cũng đang chuyển động theo chiều dương Ox với vận tốc là u, thì người quan sát tại S sẽ thấy ánh sáng truyền đi với vận tốc là v = c + u > c ? Nếu như vậy thì vận tốc c không phải là vận tốc giới hạn?
2. Thí nghiệm Michalson-Morley
Cuối thế kỷ 19 đa số các nhà vật lý tin rằng vũ trụ được lắp đầy bởi một môi trường vật chất đặc biệt gọi là ether hỗ trợ cho sự lan truyền của sóng điện từ. Ðiều giả thuyết này dựa vào cơ sở là các sóng cơ học đều cần một môi trường trung gian để truyền tương tác. Ánh sáng đi qua ether với tốc độ là c bằng nhau theo mọi hướng.
Thí nghiệm được thực hiện bằng một giao thoa kế gồm các nguồn sáng đơn sắc có bước sóng [latex]\lambda = 633 nm[/latex] nửa phản xạ và nửa truyền qua M, hai gương phẳng M1 và M2 cùng đặt trong hệ quy chiếu S' (đó là phòng thí nghiệm di động đặt trong môi trường ether) đang chuyển động với vận tốc u theo chiều dương Ox so với hệ quy chiếu đứng yên S (Hình 1.3)
Ánh sáng sau khi tới bản M cho một tia phản xạ và đến gương M1 rồi phản xạ trở lại về M, truyền qua M lần nữa để vào G.
Tia khúc xạ sau khi đi qua M đến gặp M2 rồi phản xạ trở lại M, tia này tiếp tục phản xạ một lần nữa để vào G.
Gọi khoảng cách từ M đến M1 và M2 là bằng nhau và bằng L
Vì theo hệ quy chiếu S' đang chuyển động, M1 cũng đang chuyển động nên tia sáng từ M đến M1 sẽ đi theo đường xiên có độ dài là:
[latex]MM_{1}=\frac{L}{cos \alpha} = L\frac{c}{\sqrt{c^{2}-u^{2}}} (1.6)[/latex]
Thời gian ánh sáng đi từ M đến M1 và quay trở về là :
[latex]t_{1}=\frac{2MM_{1}}{c} = 2L\frac{1}{c^{2}-u^{2}} (1.7)[/latex]
Tia sáng đi từ M đến M2 có vận tốc tương đối là (c-u) còn khi nó quay trở lại có vận tốc tương đối là (c+u). Vậy thời gian từ M đi đến M2 và quay trở về là:
[latex]t_{2}=\frac{L}{c-u} +\frac{L}{c+u}=\frac{2Lc}{c^{2}-u^{2}} (1.8)[/latex]
Thời gian chênh lệch khi 2 tia đến và quay về M là:
[latex]\Delta t=t_{2}-t_{1}=\frac{2Lc}{c^{2}-u^{2}}-\frac{2L}{\sqrt{c^{2}-u^{2}}}(1.9)[/latex]
Do u nhỏ hơn nhiều so với c nên:
[latex]\frac{1}{\sqrt{c^{2}-u^{2}}}=\frac{1}{c\sqrt{1}-\beta ^{2}}\approx \frac{1}{c^{2}}(1+\beta ^{2}) (1.10)[/latex]
trong đó: [latex]\beta =\frac{u}{c}[/latex]
và [latex]\frac{1}{c^{2}-u^{2}}=\frac{1}{c^{2}(1-\beta ^{2})}\approx \frac{1}{c^{2}}(1+\beta ^{2}) (1.11)[/latex]
Như vậy có thể viết lại là:
[latex]\Delta t=\frac{2Lc}{c^{2}-u^{2}}-\frac{2L}{\sqrt{c^{2}-u^{2}}}=\frac{Lu^{2}}{c^{3}} (1.12)[/latex]
Giả thiết rằng công thức cộng vận tốc Galileo là được thảo mãn thì hai tia sáng đó khi đi vào ống ngắm G có hiệu quang trình là [latex]\Delta r=c.\Delta t[/latex] và như vậy sẽ lệch pha nhau một lượng:
[latex]\Delta \phi =\frac{2\pi }{\lambda }(c.\Delta t)=\frac{2\pi Lu^{2}}{\lambda c^{2}}(1.13)[/latex]
Cường độ sáng tổng hợp trên màn giao thoa là [latex]I = I_{1}+I_{2}+2\sqrt{I_{1}I_{2}}.cos[/latex]
trong đó I1, I2 lần lượt là cường độ của hai tia sáng thành phần cùng đi vào ống ngắm G. Thí nghiệm được làm lại nhiều lần trong điều kiện người ta quay dụng cụ thí nghiệm theo những góc khác nhau so với trục Ox nhưng vẫn giữ nguyên phương chuyển động của S so với S là Ox.
Sự tính toán bằng công thức hợp tốc Galileo cho ta kết qủa là theo những góc khác nhau thì hiệu số pha của các tia sáng thành phần đi vào ống ngắm G là khác nhau. Tức là cường độ sáng tổng hợp trên màn giao thoa khác nhau.
Theo tính toán thì cường độ sáng tổng hợp trong ống ngắm G sẽ thay đổi rất lớn, rất dễ quan sát khi mà ta quay dụng cụ thí nghiệm theo những góc khác nhau. Nhưng thực tế người ta không quan sát được sự thay đổi cường độ sáng khi quay dụng cụ thí nghiệm. Tức là hiệu số pha và hiệu thời gian truyền của hai tia sáng là như nhau.
Thí nghiệm này có thể chứng tỏ ánh sáng truyền theo mọi phương với cùng vận tốc là c chứ không tuân theo công thức cộng Galileo. Không thể có vận tốc lớn hơn c.
3. Thí nghiệm Sitter về quan sát hệ sao đôi
Năm 1913 de Sitter đã bác bỏ phép cộng vận tốc Galileo đối với ánh sáng trên cơ sở quan sát chuyển động của các ngôi sao đôi.
Sao đôi là hai ngôi sao ở gần nhau, chuyển động xung quanh một trọng tâm. Nếu một ngôi sao nặng hơn ngôi sao kia rất nhiều thì ngôi sao nhẹ sẽ chuyển động xung quanh ngôi sao nặng như một vệ tinh. Ðể đơn giản ta xem ngôi sao nặng là đứng yên còn ngôi sao nhẹ chuyển động xung quanh với vận tốc v (Hình 1.4).
Xét 1 tia sáng được phát ra tại thời điểm ngôi sao nhẹ ở điểm B chuyển động ra xa phía Trái Đất D lúc đó nếu dùng công thức Galileo tia sáng sẽ chuyển động về phía Trái Đất với vận tốc c-v, nếu tia sáng phát ra vào thời điểm t0 thì nó sẽ truyền đến Trái Đất vào thời điểm [latex]t_{1}=t_{0}+\frac{S}{c-v} (1.14)[/latex]
S là khoảng cách từ ngôi sao đến Trái Đất.
Sau mộ nửa chu kì quay là 0,5T ngôi sao đi đến điểm A có vận tốc tiếp tuyến hướng về phía Trái Đất, như vậy những tia sáng mà ngôi sao phát ra đi đến Trái Đất với vận tốc c+v, nó sẽ đến Trái Đất vào thời điểm là: [latex]t_{2}=t_{0}+0,5T+\frac{S}{c-v} (1.15)[/latex]
Nếu khoảng cách từ hệ sao đôi đến Trái Đất là đủ lớn sao cho tia sáng đi từ A đuổi kịp tia sáng đi từ B thì ta sẽ quan sát ánh sáng từ ngôi sao nhẹ tại hai thời điểm A và B vào cùng một thời điểm t được tính là:
[latex]t=t_{0}+\frac{T}{2}+\frac{S}{c+v}=t_{0}+\frac{S}{c -v} (1.16) [/latex]
[latex]T = 2S(\frac{1}{c-v}-\frac{1}{c+v})=\frac{4Sv}{c^{2}-v^{2}} [/latex]
Ta có thể chọn được một số hệ ngôi sao đôi thỏa tính chất trên để quan sát. Nhưng trên thực tế ta không bao giờ quan sát được. Như vậy không thể chấp nhận phép cộng vận tốc Galileo cho ánh sáng.
4. Thuyết tương đối hẹp của Einstein
Nguyên lý tương đối trong cơ học Newton nói rằng các hiện tượng cơ học đều xảy ra như nhau trong mọi hệ qui chiếu quán tính nhưng không nói rõ các hiện tượng khác như là nhiệt, điện, từ có xảy ra như nhau trong mọi hệ qui chiếu quán tính. Theo phần điện từ trường ta thấy tương tác từ xảy ra chủ yếu là do dòng điện tức là do chuyển động của các hạt mang điện. Như vậy có thể trong các hệ qui chiếu quán tính khác nhau các hiện tượng điện từ sẽ xảy ra khác nhau. Nhiều thí nghiệm được thực hiện với các hệ qui chiếu quán tính khác nhau với mục đích tìm ra một hệ qui chiếu quán tính mà ở đó tốc độ ánh sáng khác hẳn với tốc độ ánh sáng trong các hệ qui chiếu quán tính khác. Nhưng những thí nghiệm đó không đạt được kết quả.
Năm 1905 Einstein phát biểu nguyên lý tương đối về sự bình đẳng của các hệ qui chiếu quán tính cụ thể bằng hai tiên đề sau:
Tiên đề 1: Mọi hiện tượng Vật lý (Cơ, nhiệt, điện, từ ...) đều xảy ra như nhau trong các hệ qui chiếu quán tính. Ðiều nầy cho thấy các phương trình mô tả các hiện tượng tự nhiên đều có cùng dạng như nhau trong các hệ qui chiếu quán tính.
Tiên đề 2: Tốc độ ánh sáng trong chân không là một đại lượng không đổi trong tất cả các hệ qui chiếu quán tính.
Giả thuyết 1 phủ định sự tồn tại của một hệ qui chiếu quán tính đặc biệt ví dụ như một hệ qui chiếu đứng yên thật sự. Nói cách khác mọi hệ qui chiếu quán tính là hoàn toàn tương đương nhau. Từ tiên đề này các nhà khoa học khẳng định không thể tồn tại một môi trường ether truyền sóng điện từ (ánh sáng) với một vận tốc khác biệt các hệ qui chiếu khác.
Phép biến đổi GALILEO làm cho các phương trình NEWTON bất biến. Điều đó không có gì xung đột với giả thuyết thứ nhất của Einstein tuy nhiên khi xét đến thời gian thì trong thực tế định luật Newton thứ hai sẽ phải bổ sung lại.
Dựa vào giả thuyết 2 ta có thể giải thích thí nghiệm Michelson và thí nghiệm Sitter vì vận tốc truyền ánh sáng là như nhau theo mọi phương nên không thể sử dụng công thức cộng vận tốc Galileo cho ánh sáng.
(còn nữa)