Trở lại   Chợ thông tin Thiên văn Việt Nam > Thảo luận kiến thức > Lớp học Thiên Văn Cơ Bản

 
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 29-08-2012, 09:53 AM
goldenvtec goldenvtec đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2012
Bài gửi: 101
Mặc định Kiểm tra thuyết tương đối từ kì nhật thực 1919 ? một câu hỏi thành kiến

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Một trong những phép đo nổi tiếng nhất trong lịch sử thiên văn học thế kỉ 20 đã được tiến hành trong hành trình kéo dài vài tháng vào năm 1919. Các đội quan sát đến từ các trường đại học Greenwich và Cambridge ở Anh đã đến Brazil và Tây Phi để quan sát một kì nhật thực toàn phần xảy ra vào hôm 29 tháng 5 năm 1919. Mục tiêu của họ là xác minh xem đường đi của các tia sáng có bị lệch khi đi qua trường hấp dẫn mạnh của Mặt trời hay không. Các quan sát của họ sau đó được xem là sự xác minh hoàn hảo của thuyết tương đối rộng; nghĩa là các quan sát đó phù hợp với những tiên đoán của lí thuyết hấp dẫn mới do Albert Einstein phát triển hơn so với lí thuyết Newton truyền thống.




Trong những thập niên gần đây, nhiều nhà vật lí và nhà nghiên cứu lịch sử khoa học đã nghi ngờ về tính xác thực của thí nghiệm nổi tiếng đó. Họ khẳng định rằng các phép đo thực hiện năm 1919 không đủ chính xác để quyết định giữa các lí thuyết hấp dẫn của Einstein và của Newton. Một số người còn tuyên bố không có căn cứ, nhất là một số nhà triết lí khoa học, rằng kết luận nghiêng về phía Einstein đó bị thôi thúc bởi thành kiến từ phe của thành viên nổi tiếng nhất của các chuyến thám hiểm, Arthur Stanley Eddington. Eddington được biết là một người nhiệt tình ủng hộ của thuyết tương đối rộng, và người ta nói ông khắc khoải muốn làm một động thái hòa giải giữa nước Anh và nước Đức vào thời hậu Thế chiến thứ nhất, bằng việc xác nhận lí thuyết của một trong những nhà khoa học hàng đầu của nước Đức, người, giống như bản thân Eddington, là một người yêu chuộng hòa bình1. Vì thế, kì nhật thực năm 1919 ngày nay thỉnh thoảng được xem là một thí dụ hoàn hảo của các nhà thực nghiệm làm phù hợp dữ liệu của họ với kết quả mong đợi ? cái gọi là hiệu ứng tiên tri.


Câu chuyện rằng kì nhật thực năm 1919 không phải là một thí nghiệm có tính quyết định có hai phiên bản. Phiên bản thứ nhất, phổ biến trong số các nhà vật lí ít nhất là kể từ thập niên 1970, bàn về độ chính xác: Các nhà thí nghiệm đơn giản là đã may mắn khi đã tiến gần một cách hợp lí đến một trong hai tiên đoán, cho nên thí nghiệm đó không cấu thành một phép kiểm nghiệm thực sự có giá trị của các lí thuyết. Phiên bản thứ hai, phổ biến trong số các nhà triết học và nhà nghiên cứu lịch sử khoa học nhưng bắt đầu đi tìm một tiếng nói chung, xuất phát từ một bài báo năm 1980 của các nhà triết học John Earman và Clark Glymour2. Họ buộc tội cụ thể Eddington và các đồng sự của ông đã vứt bỏ các số liệu dường như ủng hộ Isaac Newton chứ không phải Einstein. Một số nhà phê bình hiện đại còn chỉ trích rằng hành động như thế không thể bào chữa được trên cơ sở khoa học và có khả năng nó bị thôi thúc bởi thành kiến chính trị và thiên hướng lí thuyết của Eddington.



Arthur Stanley Eddington (1882 ? 1944). Năm 1919, Eddington trở nên nổi tiếng là hệ quả của nghiên cứu của ông về cấu trúc bên trong của các sao. Sự nhiệt tình của ông với thuyết tương đối rộng khiến một số nhà sử học buộc tội ông có thiên kiến trong phân tích dữ liệu nhật thực năm 1919 (Ảnh: AIP Emilio Segrè Visual Archievs)

Frank Watson Dyson (1868 ? 1939). Nhà thiên văn học hoàng gia Anh và là giám đốc Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich, Dyson là người chịu trách nhiệm chính cho việc tổ chức chuyến thám hiểm năm 1919. Có kinh nghiệm cả về đo đạc sao và thám hiểm nhật thực, ông phụ trách phân tích số liệu của chuyến thám hiểm Greenwich đến Sobral, Brazil (Ảnh của Thư viện Quốc hội, Bộ sưu tập George Grantham Bain).


Tất nhiên, người ta không thể chắc chắn lắm về bất kì khả năng xây dựng lại nào của các phán xét thực nghiệm đã gần một thế kỉ tuổi, nhưng tôi cho rằng sự cân bằng bằng chứng chủ yếu nằm ở thiên hướng quan điểm của những người lãnh đạo nhóm thám hiểm năm 1919, Frank Watson Dyson và Eddington, có cơ sở hợp lí cho việc phán quyết rằng các kết quả của họ là không phù hợp với tiên đoán của lí thuyết Newton. Thật vậy, cách xử lí số liệu của họ dường như được minh oan bởi một bản phân tích lại hồi năm 1979 các tấm phim chụp của họ bằng phương pháp trắc sao hiện đại. Tuy vậy, hai nhà nghiên cứu đó không tin họ đã nói lên lời cuối cùng. Thật vậy, Dyson và các cộng sự của ông đã tiến những bước dài để cố gắng dựng lại thí nghiệm đó vào kì nhật thực năm 1922.


Chuyến thám hiểm


Trong một bài báo năm 1911, Einstein lần đầu tiên tiên đoán rằng ánh sáng sẽ rơi trong một trường hấp dẫn, cho nên ánh sáng sao đi qua gần rìa Mặt trời sẽ bị lệch khỏi quỹ đạo của nó3. Ông tính ra được vị trí quan sát thấy của một ngôi sao có ánh sáng đi qua gần Mặt trời sẽ thay đổi một lượng 0,87 giây cung (0,87??). Phân tích của ông xây dựng trên hiểu biết của ông về những đặc trưng cơ bản mà một lí thuyết tương đối tính của sự hấp dẫn phải có, nhất là nguyên lí tương đương. Nguyên lí tương đương đòi hỏi tất cả các khối lượng phải rơi ở tốc độ như nhau trong một trường hấp dẫn.

Eddington và Dyson đã gán giá trị Einstein tính được năm 1911 là giá trị ?Newton?, một tên gọi hợp lí bởi khám phá tiếp sau đó rằng một giá trị tương tự chỉ dựa trên vật lí học Newton đã được công bố năm 1804 bởi nhà thiên văn người Đức Johann Georg Soldner4. Năm 1916, sau khi đã phát triển phiên bản cuối cùng của lí thuyết tương đối rộng của ông, Einstein nhận ra còn có một thành phần nữa đối với hiệu ứng làm lệch ánh sáng gây ra bởi cách khối lượng Mặt trời làm bẻ cong không thời gian xung quanh nó. Như vậy, một đường thẳng ở gần Mặt trời bị cong đi so với một đường thẳng trong không gian phẳng. Sự lệch thêm do độ cong đó gây ra có thể sánh với sự lệch chỉ do chuyển động rơi gây ra, cho nên tiên đoán của thuyết tương đối rộng yêu cầu một độ lệch vị trí sao lớn gấp hai lần ? khoảng 1,75? tại rìa của Mặt trời ? so với yêu cầu của lí thuyết Newton.

Ngay từ năm 1913, Einstein đã viết thư cho các nhà thiên văn học hàng đầu, cố gắng thuyết phục họ thực hiện một phép đo của hiệu ứng mà ông tiên đoán. Tuy nhiên, các ngôi sao ở gần Mặt trời thường không nhìn thấy được, nên vấn đề là các nhà thiên văn cần phải chụp ảnh một vùng sao xung quanh Mặt trời trong một kì nhật thực toàn phần. Điều đó có nghĩa là phải thực hiện những chuyến đi vất vả đến nơi nhật thực được tiên đoán xảy ra. Trước năm 1919, một số nỗ lực nhằm đo hiệu ứng đó đã bị cản trở bởi thời tiết xấu lẫn Thế chiến thứ nhất6. Vả lại, Einstein đã thay đổi tiên đoán của ông vào năm 1916, nên có lẽ thật là may mắn khi những cuộc thám hiểm trước thời điểm đó đã không thành công.

Nhật thực năm 1919 được công nhận là một cơ hội đặc biệt thuận lợi do sự có mặt của những ngôi sao sáng bất thường thuộc cụm Hyades ở gần Mặt trời trong lúc nhật thực. Hơn nữa, lúc ấy lí thuyết của Einstein đã thu được sự nổi bật đáng kể do thành công của nó ở việc giải thích sự tiến động không bình thường của Thủy tinh là một nhiễu loạn trong quỹ đạo của nó do Mặt trời bẻ cong không thời gian gây ra.

Người nhận ra tầm quan trọng của nhật thực năm 1919 là Dyson (không có liên quan gì đến nhà vật lí Freeman Dyson), nhà thiên văn học hoàng gia của nước Anh và là giám đốc Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich. Người chỉ cho Dyson thấy tầm quan trọng của lí thuyết mới của Einstein là Eddington, giám đốc Đài thiên văn Đại học Cambridge. Dyson, chủ tịch Liên ủy ban thường trực về nhật thực của Hội Hoàng gia và Hội Thiên văn học Hoàng gia, đã chọn Eddington vào một ủy ban con thành lập ra để chuẩn bị cho chuyến thám hiểm quan sát nhật thực năm 1919. Mặc dù có vẻ như chiến tranh sẽ làm hỏng mất những nỗ lực của họ, nhưng sự kết thúc đột ngột của các hành vi thù địch vào tháng 11/1918 xảy ra vừa kịp lúc cho chuyến thám hiểm khả dĩ thực hiện được. Eddington, mang theo một người thợ đồng hồ xứ Northamptonshire tên là Edwin Turner Cottingham, đã đi đến một trạm trên hòn đảo Hoàng tử nằm ngoài khơi vùng duyên hải Tây Phi, ở gần xích đạo. Dyson đã gửi hai trong số các phụ tá Greenwich của ông, Charles Davidson và Andrew Crommelin, đến một trạm tại Sobral ở miền bắc Brazil.

Có khả năng câu chuyện nổi tiếng nhất về thiên hướng vô cớ của Eddington nghiêng về lí thuyết của Einstein là một câu chuyện do chính Eddington tường thuật lại trong đó Dyson, trong khi giải thích thí nghiệm với Cottingham trước chuyến đi, đã bảo người thợ đồng hồ rằng có ba khả năng hợp lí về mặt lí thuyết: không bị lệch; lệch một nửa, cho thấy ánh sáng có khối lượng, và chứng minh Newton đúng; và bị lệch hoàn toàn, chứng minh Einstein đúng. Biết rằng sự lệch càng lớn thì kết quả càng hấp dẫn và mới lạ về mặt lí thuyết, Cottingham đã hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ thu được gấp đôi độ lệch Einstein. ?Khi đó?, Dyson trả lời, ?Eddington sẽ phát rồ, còn anh sẽ phải trở về một mình?.

Hai đoàn thám hiểm rời nước Anh vào tháng ba và đến các trạm của họ đúng thời gian thích hợp cho kì nhật thực. Vào ngày nhật thực, 29/5, Eddington đã thất vọng vì những đám mây nặng nề, nhưng chúng đã kịp mỏng đi trong lúc nhật thực để ông thu được ảnh của những ngôi sao sáng nhất vào những phút phơi sáng sau cùng ông thực hiện. Trong khi đó, đội Greenwich ở Sobral được thời tiết tốt ủng hộ nhưng lại gặp rắc rối bởi thiết bị chính của đội không hoạt động, một thấu kính chụp ảnh thiên văn. Được chế tạo để dùng trong các nghiên cứu chụp ảnh toàn bầu trời, các thấu kính ảnh thiên văn được thiết kế có một trường nhìn rộng khác thường. Thiết bị hỗ trợ, một thấu kính 4 inch, thì hoạt động tốt. Nhưng với trường nhìn hẹp hơn của nó, thấu kính 4 inch mang lại ít sao hơn trên phim chụp của nó so với thấu kính ảnh thiên văn.


Nguồn: thuvienvatly.com
Trả lời với trích dẫn


 


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


© 2008 - 2025 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.