Xem bài viết riêng lẻ
  #2  
Cũ 27-08-2012, 09:48 AM
vungtau vungtau đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2012
Bài gửi: 119
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Các hạt cơ bản, sơ cấp được hình thành như thế nào?

Mô hình của hạt electron được hình thành với các sợi dây xếp cạnh nhau chiếu tâm theo hình vành khuyên với mặt cắt hình nón cụt đáy rất rộng hay hình quạt đáy tròn gần bán cầu bên ngoài ,năng lượng cao dạng sóng chuyển động một chiều theo dây từ tâm rồi thoát ra ngoài rồi vào dây từ trường của cái gọi là đường hầm vi lượng tử trực giao xuyên qua tâm vòng xuyến này nối lại vào một đầu ở đỉnh (tâm) hình nón cụt, hình thành một đơn cực từ của hạt này trong mô hình điện tử ( chiều dòng từ đối tâm từ hai bên). Các vòng dây từ nằm ngoài càng dài (lớn) thì sóng càng giảm – thấp tần (do sóng (lực âm nội tại) chia đều cho các vi hạt) chênh lệch so với trường ít đi so với các dây từ nằm bên trong cao tần chênh lệch nhiều hơn (cũng giống như từ trường nam châm).

Electron không phải là đơn cực từ mặc dầu luôn song hành với nó vì trong từ trường đối cực electron chuyễn động ngang còn đơn cực từ chuyển động đối song (vật lý), eletron chỉ là hạt đơn cực về điện tích với một cực ngoài theo chiều dòng ra từ tâm (quy ước – có thể ngược lại theo kết quả thực nghiệm) và là hạt có đơn cực từ (chỉ có một loại cực từ). Với mô hình quả cầu gai thì electron tròn trĩnh hơn với chiều từ theo kiểu địa cầu nhưng dòng từ đơn cực từ đầu gai đi vào hai cực bắc-nam chứ không phải từ bắc sang nam (hay ngược lại như quả đất). Với positron chiều sóng ngược lại. Proton cũng như positron nhưng lớn hơn nhiều (vật lý) và chia thành ba đoạn không đều tương đương với ba quark.

Neutron cũng giống như proton nhưng các dây xếp theo cặp đối song với nhau (điểm khác biệt), các sóng năng lượng ngược chiều nhau theo chiều cặp dây thoát ra hai chiều đối nghịch nhau nhưng cùng chiều xoay hình thành lưỡng cực từ (chiều sóng ra vào và tâm cùng chiều ở hai bên) trung hòa về điện tích. Mô hình này giống biểu tượng cảnh báo phóng xạ với từ trường xuyên tâm .Với cấu trúc phức tạp này thể hiện được điện tích qua năng lượng tần số giống nhau (electron có điện tích bằng proton ,tương tự như nhiều ly nước nóng cùng nhiệt độ cộng với nhau (trộn chung) được một ca nước nóng cùng nhiệt độ) và khối lượng khác nhau qua số lượng chuỗi dây (chủ) hoặc chiều dài sợi dây nếu bán kính proton lớn hơn.

Đối với nam châm, các neutron trong các nguyên tử được sắp xếp sao cho chiều từ xuyên tâm đồng trục với nhau (cùng trục), hai đầu chuỗi dây chủ của từng cặp dây trong hạt neutron nối trực tiếp với nhau ở ngoài biên, các đầu dây từ trong tâm hạt neutron của các nguyên tử được nối với nhau theo chiều sóng cùng chiều từ nguyên tử này qua nguyên tử kia theo một trục trong vật chất, hai đầu dây từ cuối cùng của chuỗi hạt (biên nam châm) cùng chiều sóng (lưỡng cực biên) do không có đầu nối vào dây chủ cho nên vòng ra ngoài vật chất (nam châm) nối trực tiếp với nhau hình thành sợi dây từ trong đường sức từ của nam châm. Nam châm càng lớn thì lực càng mạnh tương ứng (lực này là lực đẩy mạnh của trường thế do chênh lệch năng lượng quá nhiều của nó so với trường, tác động vào nguyên tử).

Tất cả các chuỗi dây từ trong các neutron (của nhiều nguyên tử đồng trục) tạo thành các dây từ dài-ngắn với mức năng lượng khác nhau tương đương với chiều dài sợi dây, nhiều nguyên tử cạnh nhau tạo thành bó lớn theo cùng mức năng lượng thoát ra ngoài xếp cạnh nhau và đây chính là đường sức của từ trường với các sóng năng lượng tăng dần (tần số từ thấp - năng lượng cao) từ vòng ngoài (lớn) vô đến vòng trong (nhỏ – tần số cao – âm cao – chênh lệch trường cao –năng lượng nội tại thấp) vì năng lượng nội tại trong dây tăng lên (chênh lệch trường ít) ngược với tần số sóng từ.

Một mô hình khác : các cặp dây chủ đối song trong từng neutron nối hết với nhau theo chiều sóng, từ cặp này qua cặp kia trong một neutron và liên kết (qua một dây từ) với các neutron của nguyên tư khác đồng trục bên cạnh, hai đầu dây từ cuối cùng vòng ra ngoài nối vào nhau, mô hình này giải thích được tại sao dây từ ngoài nam châm có thể lớn (dài) như vậy.

Các nguyên tữ ngoài biên nam châm hình thành vòng (bó) dây ngắn, các nguyên tử đồng trục từ nằm bên trong nam châm hình thành vòng (bó) dây dài hơn tương ứng với mức năng lượng, do sự liên kết với nhiều dây chủ (dương) , tần số trên dây từ rất cao giống như hiệu thế volt cao do kết hợp nhiều vòng dây trong cuộn tăng áp, yếu tố này giãi thích tại sao lực điện từ mạnh hơn nhiều so với lực thế dẫn mặc dù chung một nguồn gốc. Với khái niệm module hạt là một vòng dây khép kín với các giá trị của các hạt thể hiện qua các mode dao động khác nhau của lý thuyết dây , không thể thể hiện được hết hai giá trị này theo lý thuyết, vì quan điểm chung từ trường là cái gì đó ( chưa có định nghĩa bản chất) có tính chất ngoại tại, mặc dầu liên kết chặt chẽ nhưng chỉ xuất hiện khi hạt mang điện di chuyển. Vả lại sợi dây với dao động sóng ( không gian hai chiều-mặc dầu củng có thể dao động ba chiều lần lượt theo thời gian) khó thể mô tả một thực tại luôn nằm trong không gian ba chiều và với một không gian quá nhiều chiều trong lý thuyết, mô hình ảo rút ra từ toán học cũng là một hạn chế khi biểu diễn cho một thế giới có thật trong tự nhiên của lý thuyết này.

Neutrino là một hạt hình thành do sự nén năng lượng vi hạt trong một không gian hữu hạn trong một điều kiện rất đặc biệt, năng lượng bên ngoài rất cao cạnh một trường thế rất thấp, nhưng các hạt khối không thể vào trong được do khuếch tán năng lượng (trường hợp hố đen hoặc các nơi khác) tạo thành hạt này. Vì vậy được xem là thành phần vật chất tối của vũ trụ tối (vật lý thiên văn) không có từ trường và chiều từ nào cả, mặc dầu năng lượng là cao nhưng không tương tác hoặc tương tác ít (sự có mặt của nó có lẽ do cân bằng với photon trong trường thế vũ trụ), người viết cho rằng khi di chuyễn neutrino cũng có khả năng xuyên qua nhau như ánh sáng do không có cấu trúc như hạt hay nguyên tử.


Vật chất tối của vũ trụ sáng do phản xạ hoặc bức xạ quá ít photon và hiện diện khuất hoặc quá xa nên không nhận biết được (nhưng có thể nhận biết qua thế dẫn) và là vật chất thông thường có tương tác vật lý. Mô hình của nó (neutrino) dưới dạng một cụm các vi hạt với tần số dương rất cao hoặc giống như mô hình các hạt mang điện nhưng không có từ trường (ngược lại với photon từ) với chiều chuyển động sóng dao động siêu tốc qua lại trên chuỗi dây chiếu tâm này trong từng vi hạt vì không có dây từ để thoát sóng.

Ánh sáng từ lâu vẫn là một bí ẩn trong khoa học với nhiều lý thuyết đưa ra để giải thích thực nghiệm , có thễ bỏ các quan điểm này vào chung một cái rổ có được không…? Người viết cho rằng có thể được mặc dầu có nhiều phạm trù thoáng qua có vẻ không thể chung với nhau như lượng tử hạt và trường sóng nếu như có một mô hình hợp lý.

Photon là một hạt đặc biệt (thực sự không phải là một hạt), nó được tạo bởi từ trường với một cấu trúc không cố định như các hạt khác. Năng lượng của nó thay đổi tùy theo tần số, qua thực nghiệm số photon đun nóng một tách nước ở tần số cao (tia tử ngoại) ít hơn nhiều lần số photon ở tần số thấp hơn (tia hồng ngoại), ở tần số rất cao (tia x trở lên) photon thễ hiện tính hạt rất rõ, ở tần số vi sóng trở xuống photon thể hiện tính sóng rõ rệt, ở tần số ánh sáng khả kiến , lưỡng tính sóng –hạt song hành. Mặc dù với tần số nào năng lượng cũng ở dạng sóng từ .

Tính nhiễu xạ và giao thoa ta thường thấy ở ánh sáng là do sóng mật độ của các photon phát đồng bộ theo các lớp từ ngoài vô trong của mạng tinh thể nguồn phát, lần lượt theo thời gian và cường độ năng lượng trong đó có sự khuếch tán theo mặt cầu từ nguồn phát với tính trực xạ của photon .Vì vậy photon có đầy đủ các đặc tính trong lý thuyết và thực nghiệm đã có về nó. Mô hình của nó ở dạng các dây từ xếp cạnh nhau chiếu tâm (hoặc ở dạng màng được tạo nên bởi các vi hạt liên kết qua các chuổi dây cùng mức năng lượng dao động) với chiều động sóng dao động trên chuỗi dây này qua lại trong vi hạt và ở thế âm so với trường thế với tần số đồng pha với tần số sóng mật độ do tác động cùng một tương tác hoặc ở dạng mô hình như neutino chỉ bao gồm một cụm các vi hạt ở thế âm với tần số trên, với mô hình này photon thể hiện tính hạt (năng lượng) đồng đều và rõ hơn ở tần số cao.

Như vậy một photon (một lượng tử từ) có tính sóng nội tại với tính lưỡng cực từ (chiều sóng tại biên - hoặc không có cực từ với mô hình sau) và tính sóng ngoại tại (mật độ) nó không phải là hạt tạo nên cấu trúc nguyên tử cho nên cần loại ra khỏi mô hình chuẩn vốn đã chưa có một định hình rỏ rệt về nó, và củng không ai muốn gọi cái khối (photon –lượng tử) có khả năng thay đổi hình dạng mà có lúc đường kính của nó lớn đến mức từ dưới mét đến trên km theo từng tần số là hạt.

Do cấu tạo bởi từ trường, photon được xem là âm so với trường thế và “âm rất cao đối với tần số cao” Với quan điểm này, năng lượng chất là một ý nghĩa phải tính đến khi giãi thích về tính hai mặt của một vấn đề (tần số – dương và âm) của nó. Tác động kích hoạt của nó đối với vật chất ở thế âm này và thế trường song hành và ở vận tốc cao của nó (âm hay dương chĩ là quy ước đễ so sánh). Khi photon di chuyển tiến vào trường thế càng suy giảm ,vận tốc đầu của nó giảm dần ( hiệu ứng hãm thế -ngược lại với vật chất ) hiệu ứng doppler tần số trong xảy ra, năng lượng nội tại photon tăng dần tương ứng với tần số (năng lượng này có tính hướng dương so với trường có nghĩa là tần số nội giảm -âm thấp ít, như vậy đối với hiệu ứng doppler, hiệu ứng tần số trong (năng lượng) của photon có liên quan chặt chẽ với vận tốc trong định luật bảo toàn năng lượng), khi ngang bằng tần số năng lượng của trường thế thấp thì không còn cái gọi là photon, tại gần biên trong của chân trời sự cố nơi hố đen điều này đã xảy ra. Khi tiến ra hiệu ứng ngược lại có nghĩa vận tốc tăng –tần sồ nội tăng -năng lượng so sánh với trường thế giảm, bù vào vận tốc nhưng tổng là bảo toàn.

Quan điểm này khác với Einstein, cho rằng khi photon thoát ra vũ trụ nó bị mất năng lượng (vận tốc hạt –chỉ một khía cạnh) do hấp dẫn vì theo Einstein photon có xung lượng dương với hấp dẫn và như vậy thì không thể đi xa được ….! Mặc dầu cũng có lúc ông cho rằng vận tốc ánh sáng là hằng số vũ trụ, có lẽ là do từ thí nghiệm Michelson với thuyết tương đối hẹp. Như vậy trong thực tế cái gọi là tần số sóng mà ta thực chứng là tần số từ trường còn các loại tần số sóng khác (nội hạt-vi hạt) là lý thuyết dùng để so sánh, và đã có thể quy tất cả các hạt khởi nguồn từ một hạt (vi hạt Néo) với tất cả các lực khởi nguồn từ một lực (lực trường thế – chênh lệch năng lượng).

Với khái niệm vũ trụ song hành và tương quan, khi một vật thể hoặc thiên thể di chuyển (thực tế trong vũ trụ không thể có một vật chất nào tồn tại ở trạng thái đứng yên tuyệt đối) thì có nghĩa là năng lượng tác động đã dịch chuyển toàn thể năng lượng song hành bao gồm vật chất và trường thế chung quanh nó cùng một lúc, không có độ trễ về thông tin giửa hai trạng thái này như quan điểm hấp dẫn (một nghi vấn của Newton), tất nhiên trường thế (năng lượng mặt đẳng thế – tần số sóng) tăng lên (đồng thời thế năng thế dẫn giảm đi) trong không gian giửa đôi bên khi hai thiên thể rời xa nhau và ngược lại, củng có nghĩa là nếu trường thế không thay đổi (thăng – giáng tức thời cùng lúc với vật chất) thì không bao giờ có chuyện vật chất di chuyển, có thể lấy hình ảnh hai chiếc xe kéo hoặc đẩy nhau bằng một thanh nối cứng ở giửa, chiếc này chuyển động thì chiếc kia tức thời phải di chuyển nếu thanh nối (trường thế) không đàn hồi; vì năng lượng vũ trụ có tính chất toàn đồ, thời gian trao đổi thông tin (năng lượng) chỉ với khoảng cách hai vi hạt cận nhau, như thế có thể xem như gần bằng không. (Vấn đề được phân tích cụ thể hơn ở cuối bài với nguyên lý trao đổi tương đương). Quan điểm này đã giải thích rõ ràng nghi vấn lịch sữ về thông tin (lực hấp dẫn) không thể nhanh hơn tốc độ ánh sáng nhưng tác động hấp dẫn (chuyển động) giửa hai thiên thể thì phải tức thời, một câu hỏi do chính Newton đặt ra, vì lực hấp dẫn là do thiên thể (vật chất) phát ra, vì thế phải cần có thời gian mới tác động đến đối tượng được trong khi giá trị của nó đã biến động do thay đổi khoảng cách giửa các thiên thể.

(Còn nữa...)
Trả lời với trích dẫn