Chợ thông tin Thiên văn Việt Nam

Chợ thông tin Thiên văn Việt Nam (http://thienvan.sangnhuong.com/index.php)
-   Tin tức thiên văn học (http://thienvan.sangnhuong.com/forumdisplay.php?f=44)
-   -   Kỳ án Mỹ đưa người lên Mặt Trăng: Vụ lừa đảo thế kỷ 20? (http://thienvan.sangnhuong.com/showthread.php?t=1496)

hieuducco 25-08-2012 10:24 AM

Kỳ án Mỹ đưa người lên Mặt Trăng: Vụ lừa đảo thế kỷ 20?
 
Tờ báo điện tử Vietnamnet vừa đăng một loạt bài đáng chú ý liên quan đến việc Mỹ đưa người lên Mặt Trăng. Mình trích đăng lại đây để mọi người cùng tham khảo và thảo luận nhé.

[JUSTIFY]
Người Mỹ có lên Mặt trăng thật không?

20% người Mỹ được hỏi không tin rằng người Mỹ đã từng lên Mặt trăng và cho rằng đây chỉ là một vụ bịp bợm lớn.


Cho đến nay, có lẽ ai cũng đinh ninh rằng Mỹ đã thắng Liên Xô trong cuộc chạy đua lên Măt trăng. Phi công vũ trụ Neil Amstrong là người đầu tiên đặt chân lên đó.

Từ con tàu bước ra, anh đã nói một câu nổi tiếng làm cả thế giới xúc động, rằng “đây là một bước nhỏ của một con người nhưng là một bước đi khổng lồ của nhân loại”. Mọi sự đều như hết sức rõ ràng.

Nhân ngày Vũ trụ quốc tế, người ta xới lại vấn đề này. Một cuộc thăm dò lại cho thấy ngay trên đất Mỹ, 20% số người được hỏi không tin rằng người Mỹ đã từng đặt chân lên Mặt Trăng. 20% là một tỷ lệ khá cao. Những người này cho rằng chẳng phải Amstrong hay bất cứ ai khác đã đổ bộ lên Mặt trăng, mà đó chỉ là một vụ bịp bợm lớn.


Hình ảnh Amstrong trên Mặt trăng.

Quả thật khi nghiên cứu các sự kiện trong Chương trình Mặt trăng sẽ phát hiện những vấn đề khó giải thích một cách thuyết phục trong khuôn khổ những giả thuyết quen thuộc về một chuyến bay lên Mặt trăng.

Từ năm 1970, tại Mỹ đã xuất bản cuốn sách của J. Krainy “Có thật con người đã đặt chân lên Mặt Trăng không?”, và năm 1976 nhà văn Mỹ Bill Keysing cũng cho phát hành một cuốn sách tựa đề “Chúng ta chưa bao giờ lên Mặt Trăng”.

Sau đó tại những nước khác nhau trên thế giới những phân tích về vấn đề này được đưa ra ngày càng nhiều với những lý lẽ khó bác bỏ của những người không tin vào những tuyến bố chính thức về thành công của Chương trình Mặt trăng của Mỹ. Trong một bài không thể trình bày tỉ mỉ tất cả mọi lý lẽ người ta đã đưa ra mà chỉ có thể tóm tắt những ý chính.

1. Khi các nhà du hành vũ trụ cắm lá cờ trên Mặt trăng, nó bay phấp phới thật sinh động. Rõ ràng gió thổi khá mạnh. Điều này cực kỳ vô lý. Bởi ai cũng biết rằng trên Mặt trăng không hề có khí quyển. Vậy thì gió ở đâu ra. Đã thế, trên hai tấm ảnh của cùng một lá cờ do NASA công bố, bóng của nó trên một tấm ở bên trái, tấm kia ở bên phải.

2. Luồng khí nóng từ động cơ phun lúc hạ cánh phải thổi rất mạnh, đương nhiên nó sẽ làm tung lên một đám bụi hình phễu ngay lại địa điểm con tàu đỗ xuống. Thế nhưng trên những bức ảnh do NASA công bố không hề thấy hiện tượng này. Bề mặt Mặt trăng vần phẳng lỳ, không một vết lõm.

3. Trong điều kiện trong lực của Trái đất, nhà du hành cùng bộ quần áo bay của anh ta có khối lượng lên tới 160 kg. Còn theo tính toán, trên Mặt trăng con số đó chỉ còn là 27 kg thôi. Vậy vì sao các nhà du hành không thể hiện các bước nhảy bật rất cao do sức hút của Mặt trăng chưa bằng 1/5 so với Trái đất? Bước nhảy trong video clip không cao quá 45 cm, chẳng khác gì khi đi trên bề mặt địa cầu. Vì sao vậy?

4. Trong các bức ảnh về phong cảnh Mặt trăng, ánh sáng rất không đồng đều. Kiểu ánh sáng như vậy là tính chất điển hình của việc dùng đèn chiếu chứ không phải ánh sáng tự nhiên.

Có một số lý do khác nữa được coi là gián tiếp. Ví dụ, Mỹ tuyên bố đã đưa tàu Apollo lên vũ trụ bằng tên lửa chuyên chở khổng lồ “Saturn-5”. Chỉ 20 năm sau, Liên Xô mới chế tạo được tên lửa nổi tiếng “Energia” có những tính năng về chuyên chở tương tự. Không lẽ Liên Xô vốn đang chiếm ưu thế về tên lửa so với họ, bỗng nhiên bị họ “qua mặt” tới 2 thập kỷ?

Lại nữa, sau khi thực hiện được Chương trình Mặt trăng, vì sao tên lửa “Saturn-5” của họ chỉ được dùng một lần duy nhất – phóng tàu vụ tru “Skylab” vào năm 1973. Loại tên lửa độc đáo đó của Mỹ nếu quả là có thật tại sao họ lại vội vã đình chỉ việc sản xuất ra chúng và 3 chiếc đã chế tạo phải lập tức bị đưa vào Viện bảo tàng?

Điều ngạc nhiên nữa là vì sao học phải dùng một chiếc xe đi trên Mặt trăng to lớn và nặng nề đến vậy, trong khi sức hút của Mặt trăng nhỏ hơn sức hút của Trái đất nhiều lần? Chúng ta hãy nhớ rằng đưa một vật thể vào vũ trụ, người ta phải cân nhắc đến từng gam, vì thêm mỗi một kg có nghĩa là phải bỏ thêm cả một số kinh phí khổng lồ.


Tên lửa chuyên chở “Saturn-5” (phóng lên tại “Sân bay vũ trụ”mang tên Kennedy).

Nói chung rất nhiều vấn đề, có đầy đủ cơ sở để nghi ngờ Chương trình Mặt trăng của Mỹ. Có ý kiến khẳng định người Mỹ chưa bao giờ lên Mặt trăng, lại có ý kiến cho là chuyến bay lên Mặt trăng đầu tiên ấy của họ chỉ là bịa đặt, sau đó, thì họ cũng lên được Mặt trăng thực sau này. Loại ý kiến thứ ba lập luận: Mặc dù Chương trình Mặt trăng của Mỹ được phủ vòng nguyệt quế nhưng tuyệt nhiên không xứng đáng. Tất cả những hình ảnh, quay phim đều thực hiện trên Trái đất.

Báo Komsomolskaia Pravda đã gặp nhà văn nổi tiếng Andrei Pashev để hỏi về chuyện này, thì ông nói: “Тôi đã từng tham gia vào cuộc tranh luận về chuyến bay lên Mặt trăng của Mỹ. Những ý kiến không tin là người Mỹ đã lên Mặt trăng không phải xuất phát từ Liên Xô trước đây. Người ta lúc đó chỉ dựa trên tính phiêu lưu và không tưởng (với trình độ khoa học lúc đó) của chương trình này”.

“Ví dụ, chính Khrushev đã, tuyên bố, chúng ta sẽ không tham gia vào cuộc chạy đua lên Mặt trăng, vì điều đó vô cùng rủi ro.Trong lịch sử của ngành du hành vũ trụ Xô Viết đã có những trường hợp chỉ vì việc tiếp xúc giữa bộ phận chỉ huy dưới mặt đất và con tàu chỉ trục trặc trong giây phút một con tàu đã lệch ra khỏi quỹ đạo và chuyến bay bị thất bại. Huống hồ xa như Mặt trăng.

Trước những dẫn chứng quá sắc bén trong cuộc tranh cãi về Chương trình Mặt trăng của Mỹ, NASA đã buộc phải đứng ra thừa nhận rằng, để minh họa việc hạ cánh của con tàu Apollo trên Mặt trăng, họ đã phải dùng những clip video và ảnh chụp không liên quan đến chuyến bay thực sự. Một số vấn đề được đưa lên trên các phương tiện truyền thông đúng là những bức ảnh chụp khi luyện tập, sở dĩ họ đưa ra vì nó rất giống với cảnh thực trên Mặt trăng.

Song họ mới đề cập đến sự bịa đặt của các đoạn phim và ảnh chụp. Những vấn đề khác họ chưa giải thích được và cũng không xin lỗi. Một vài chuyên liên quan cũng dần dần lộ ra. Chẳng hạn, chuyện thất lạc những tài liệu khi Apollo hạ cánh. Lại còn chuyện những viên đá cuội mà các phi hành gia lượm từ bề mặt của Mặt trăng đã đem tặng các bảo tàng châu Âu, được biết NASA cũng đã bị thanh minh là họ “nhầm” với viên đá của Trái đất chứ không có cố ý.

Còn nữa...[/JUSTIFY]

huda 25-08-2012 10:24 AM

[JUSTIFY]
Tên lửa Mỹ không đưa người lên Mặt trăng?


Mỹ tuyên bố bằng tên lửa “Saturn-5”, họ đã thực hiện chương trình Apllo đưa người lên Mặt trăng. Liệu tên lửa của Mỹ có khả năng này?

Một trong những nguyên nhân làm dấy lên nghi ngờ rằng vào năm 1969 Mỹ không đưa được người lên Mặt trăng là vì chỉ vài năm trước, tên lửa Mỹ thua kém so với Liên Xô trên cơ sở những gì mà hai bên thực hiện được trong cuộc chinh phục vũ trụ, nhưng đột nhiên, tên lửa “Saturn-5” của họ có sức mạnh mà 20 năm sau, với tên lửa “Energia”, Liên Xô mới đạt được.

Có những bằng chứng cho thấy tên lửa “Saturn-5” – mà ngay sau đó, Mỹ đưa vào bảo tàng – là không có khả năng này.

Mỹ tuyên bố Chương trình Apollo phóng những con tàu có người điều khiển đã thành công vào ngày 11/10/1968: Con tàu Apollo-7 đưa các phi hành gia Walter Shirra, Donnon Eisele và Walter Cunningham xuất phát từ sân bay vũ trụ Kennedy và bay quanh Trái đất theo quỹ đạo hình ellip.

Ngày 21/12/1968, Mỹ lại dùng tên lửa đẩy “Saturn-5” lần đầu tiên đưa Apollon-8 với phi hành đoàn gồm Frank Borman, James Lovell và William Anders bay lên Mặt trăng. Con tàu đã bay quanh Mặt trăng 10 vòng trong 22 giờ. Chuyến bay này là để kiểm tra lại công nghệ gọi là “điều chỉnh nhiệt thụ động” (pasive thermal control) nghĩa là cho con tàu quay xung quanh trục dọc để gia nhiệt đồng đều bề mặt của nó bằng những tia nắng Mặt trời.


Tầng 1 của tên lửa “Saturn-5” dùng để phóng Apollo-11 được kéo ra bệ phóng. Ảnh: NASA.

Việc chuẩn bị thám hiểm Mặt trăng được chuẩn bị gấp rút và tuyên truyền rầm rộ. Tuy nhiên, tên lửa “Saturn-5”, chưa bao giờ đạt được những tính năng cần thiết, ít nhất là về tải trọng hữu ích của nó (không dưới 4-5 tấn) và cũng không đạt được hệ số an toàn cho con người (ít ra cũng là 0,99).

Ai cũng biết rằng trong quá trình thử nghiệm mô hình động lực học của modun bay lên Mặt trăng bị trục trặc lớn. Khi phóng thử trong điều kiện mô phỏng về trọng lực của Mặt trăng, cabin đã bị mất khả năng điều khiển, bị lộn nhào và vỡ tung. Lần ấy Amstrong, người lái con tàu, bị hất ra ngoài “một cách kỳ diệu”.

Lúc đó, tướng N.P. Kamanin (trợ lý Tư lệnh các lực lượng không quân Liên Xô, đặc trách về vũ trụ) đã gọi chuyến bay của Apollo-8 là “một chuyến phiêu lưu thuần tuý. Người Mỹ không hề có kinh nghiệm đưa con tàu trở về Trái đất khi đang bay với tốc độ vũ trụ cấp 2, và tên lửa “Saturn-5” không có đủ độ tin cậy (chỉ mới thực hiện được 2 chuyến bay, thì 1 chuyến đã không thành công)”.


James Lovell, Willim Anders, Frank Borman, phi hành đoàn trên Apollo-8. Ảnh: Wikipedia.

Tuy nhiên, ý thức hệ được đặt trên tất cả. Bằng bất cứ giá nào thì Mỹ cũng quyết tâm không để Liên Xô vượt mặt. Tàu “Thăm dò” (Zonda) trong những năm 1967-1968 của Liên Xô đã thực hiện được một chuyến bay về phía Mặt trăng và tiếp đó, bay quanh Mặt trăng vào Tháng 11/1968, mang theo những con rùa trên boong rồi quay trở lại mặt đất một cách mỹ mãn. Điều này làm Mỹ càng phải vội vã.

Ngày 7/12/1968, một cánh cửa bay tới Mặt trăng của Liên Xô được mở, trước tuyên bố của Mỹ, rằng theo dự kiến tháng 12 họ sẽ phóng tàu có người điều khiển đầu tiên Apollo-8 bay quanh Mặt trăng.

Những cuộc tranh luận bùng lên tại Liên Xô, có nên đưa người lên đó trên con tàu “L-1” để làm được việc này trước Mỹ hay không. Các nhà du hành vũ trụ được đào tạo cho sứ mệnh lên Mặt trăng là Belaiev và Bykovski đã gửi thư cho Bộ Chính trị, nói họ sẵn sàng hy sinh tính mạng nếu chưa đủ an toàn nhưng dù sao xác suất thành công của tàu có người lái vẫn cao hơn phóng lên một thiết bị tự động.

Kết quả là Liên Xô đã thông qua phương án phóng tàu có người điều khiển đầu tiên là “Soyuz-7K-L1” bay quanh Mặt trăng vào ngày 8/12 và chuyến bay sẽ kéo dài 6 ngày. Thế nhưng trước ngày dự định, tên lửa đẩy của con tàu là Proton xuất hiện hàng loạt vấn đề ngay trên bệ phóng. Không thể khắc phục được sự cố, cánh cửa sổ bay lên Mặt trăng của Liên Xô đành khép lại. Và người Mỹ đã phóng Apollo-8 lên theo kế hoạch của họ.


Phi hành đoàn của tàu Apollo-8 trong boong này trước lúc khỏi hành. Ảnh: NASA.

Từ sau cơ hội này, lãnh đạo Liên Xô đột nhiên không hề chú ý đến Chương trình Mặt trăng của họ nữa “một cách khó hiểu”. Người Mỹ dường như với “một điều thần kỳ nào đó” bỗng biết cách khắc phục những khó khăn kỹ thuật có tính nguyên lý mà họ không thể vượt qua trong thập kỷ trước. Rồi họ tuyên bố ngày 3/3/ 1969, phi hành đoàn Apollo-9 với James Mack Divitta, David Scott và Russell Schweickart đã thử nghiệm việc hạ cánh trên Mặt trăng một môđun thám hiểm sau khi tách khỏi con tàu và sau đó ráp nối lại với nó trên quỹ đạo Trái đất.

Cuối cùng đến ngày 16/7/1969, tàu Apollo-11 được phóng lên Mặt trăng. Trên boong có các nhà du hành vũ trụ Niel Amstrong, Michael Collins và Edwin Aldrin. Ngày 20/7 theo thông báo của Mỹ, Amstrong là người đầu tiên đặt chân lên bề mặt Mặt trăng. Người thứ hai là Edwin. Còn Collins thì quay tròn môđun điều khiển xung quanh Mặt trăng, đợi các bạn mình quay trở về.


Eugene Sernan bên cạnh lá cờ Mỹ. Ảnh: NASA.

Chính những số liệu của tên lửa “Saturn-5” qua những lần cải tiến để đưa các tàu Apollo trong Chương trình Mặt trăng của những chuyến bay trước đã chứng minh rằng Apollo-11, với tải trọng lớn nhất, không có khả năng để các nhà du hành đặt chân lên Mặt trăng, sau đó quay trở lại an toàn.

Tổng khối lượng mođun điều khiển và mođun Mặt trăng mà tên lửa “”Saturn-5” phải đưa lên Mặt trăng lên tới 38 tấn (khoảng 40 tấn kể cả các tầng trung gian) và để hạ cánh xuống Mặt trăng là 43 tấn (khoảng 45 tấn kể cả các tầng trung gian), trong đó môđun điều khiển là 29 tấn, môđun Mặt trăng 14 tấn.

Một nguyên nhân khiến “Saturn-5” không đạt được các tính năng mà Mỹ công bố có thể là tầng thứ 2 (không kể nhiên liệu) của “Saturn-5” nặng hơn so với tính toán và xung lượng riêng của động cơ F-1 và J-2 không đạt được công suất thiết kế (khi cải tiến “Saturn-5” Mỹ đã tập trung vào giải quyết khâu này).


Tầng thứ 2 của “Saturn-5”

Tại sao người Mỹ không tập trung vào giải quyết những tính năng của tên lửa cho đúng yêu cầu cần thiết để khỏi phải băn khoăn đến cái gọi là “khối lượng dư thừa” và “không đủ xung lượng riêng”. Thực ra, họ đã cố gắng đến hết sức lực của mình rồi. Khối lượng ban đầu họ đã giảm đến mức tối đa và công suất của động cơ thì không sao tăng nổi. .Chỉ chút xíu khối lượng nữa thôi thì tên lửa sẽ không bay được. Khả năng đẩy của F-1 đã bị huy động đến giới hạn. Áp suất cũng đã đến giới hạn đối với động cơ sơ đồ hở. Giải pháp cơ bản nhất là lắp thêm một máy gia tốc kiểu treo, nhưng để làm việc này phải mất thời gian. Mà thời gian thì họ không còn.

Còn nữa...[/JUSTIFY]

tanphuoc 25-08-2012 10:24 AM

[JUSTIFY]
Mỹ không thể lên Mặt trăng an toàn?

Với những kiến thức về an toàn trong vũ trụ của hơn 4 thập kỷ trước, Mỹ khó lòng lên tới Mặt trăng mà các nhà du hành không bị thương vong. Họ đã chống lại bức xạ vũ trụ như thế nào? Vì sao không gặp tổn thất nào đáng kể?


Nhà khoa học Mỹ James Van Allen đã có những phát hiện quan trọng về vấn đề này. Trên vệ tinh đầu tiên Mỹ phóng lên vũ trụ, dù rất nhỏ, Van Allen đã gửi theo một máy đếm tia phóng xạ Geiger, nhờ vậy đã khẳng định được giả thuyết của nhà bác học Nicolas Tesla rằng Trái đất bị bao quanh bởi một vành đai bức xạ mạnh.


Ảnh Trái đất do nhà du hành vũ trụ William Anders chụp khi bay trên Apollo-8. Ảnh: NASA.

Тuy nhiên, giả thuyết trước đây của Tesla cho rằng Mặt trời là nguồn bức xạ khổng lồ bị coi là điên rồ và thuật ngữ “gió Mặt trời” của ông còn bị mang ra chế giễu. Chính nhờ Van Allen, giả thuyết của Tesla lại được nhắc đến.

Van Allen và nhiều nhà nghiên cứu khác đã xác định rằng vành đai bức xạ của vũ trụ bắt đầu nhận thấy cách mặt đất 800km và trải dài tới 24.000 km. Cường độ bức xạ từ lúc phát ra gần như không đổi. Nếu không, nó sẽ tích tụ để đến một lúc nào đó, sẽ “đốt cháy” Trái đất như nướng chiếc bánh trong lò hoặc làm Trái đất khô rang.

Van Allen viết: “Vành đai bức xạ có thể ví một chiếc bình cầu (chứa Trát đất bên trong) luôn luôn được Mặt trời bổ sung và xảy ra cả trong khí quyển. Phần lớn các hạt từ Mặt trời làm bình quá đầy và tràn ra ngoài, đặc biệt ở các vùng cực, dẫn tới hiện tượng cực quang (aurora), bão từ và các hiện tượng khác. Vành đai bức xạ phụ thuộc vào gió Mặt trời và người ta chưa biết còn lại bao nhiêu bức xạ trong vũ trụ”.


Các quỹ đạo của hạt khí quyển trong tầng ngoại quyển (exosphere, tức khoảng cách mặt đất 500-1.000 km).


Mặt trăng không có vành đai Allen. Nó không có bầu khí quyển bảo vệ và phải hứng chịu trọn vẹn gió Mặt trời. Nếu trong thời gian các nhà du hành vũ trụ đặt chân lên Mặt trăng mà xảy ra vụ chớp loé trên mặt trời (sun flare) thì một luồng khổng lồ các bức xạ đổ xuống sẽ thiêu trụi cả con tàu lẫn các nhà du hành.

Năm 1963, các nhà khoa học Liên Xô đã thông báo với nhà thiên văn nổi tiếng người Anh, Bernard Lovell rằng họ chưa biết phương pháp bảo vệ các nhà du hành khỏi tác động gây chết người của các bức xạ vũ trụ. Điều đó có nghĩa là ngay cả lớp vỏ kim loại của các thiết bị của Liên Xô dù rất dày cũng không thể chịu đựng nổi bức xạ. Như vậy các lớp vỏ mỏng hơn rất nhiều lần so với Nga của khoang trợ sinh (capsule) trong các con tàu của Mỹ làm sao bảo vệ được các nhà du hành của họ? Chắc NASA biết rõ điều này.

Con khỉ mà Mỹ phóng lên sau chưa đến 10 ngày đã chết nhưng NASA đã không báo cho Liên Xô nguyên nhân thực sự của cái chết này.

Những người đã bay trong vũ trụ đều không nghi ngờ sự tồn tại của các bức xạ với khả năng đâm xuyên mạnh qua cabin của họ có thể gây chết người. Sẽ không ngạc nhiên (vì ai cũng suy luận ra) trong cuốn “Từ điển bách khoa có minh họa về công nghệ vũ trụ” của Mỹ hoàn toàn không nói một lần nào đến cụm từ “bức xạ vũ trụ”. Các nhà nghiên cứu Mỹ (nhất là những người liên quan đến NASA) đều tránh nói đến thuật ngữ này.

Trong khi đó, Lovell sau khi trao đổi với các đồng nghiệp Nga vốn rất am hiểu về bức xạ vũ trụ đã gửi đến Hugh Dryden, Giám đốc của NASA những thông tin này, nhưng ông ta cố tình lờ đi. Chỉ trong cuốn sách của nhà du hành Mỹ đến Mặt trăng là Collins thì có nhắc đến bức xạ vũ trụ đến 2 lần. Ông viết: “Ít nhất Mặt trăng cũng xa giới hạn của vành đai bức xạ. Nó cảnh báo cho những ai chi đi qua đó và nó rất nguy hiểm cho những ai ở lại đó” và “Như vậy, cần phải hiểu biết về vành đai bức xạ Van Allen, bao quanh Trái đất, và đề phòng gió Mặt trời để không đưa phi hành đoàn vào vùng có liều lượng bức xạ cao”.

Nhưng “hiểu biết và đề phòng” là thế nào? Phải chăng những nơi nào trong vũ trụ mà không phải vành đai này thì hoàn toàn không có bức xạ vũ tru? Hay NASA có chiến lược bí mật nào đó để tránh được những vụ chớp loé trên Mặt trời khi chấp nhận những giải pháp cuối cùng về cuộc thám hiểm?

NАSА khẳng định là có thể đoán trước được những vụ chớp loé trên Mặt trời và chỉ đưa người lên Mặt trăng khi không có những vụ chớp đó và những nguy hiểm của bức xạ giảm tới tối thiểu.


Khi Amstrong và Aldrrin thực hiện những công việc trong vũ trụ mở trên bề mặt Mặt trăng thì Collins lái con tàu trên quỹ đạo. Ảnh: NASA.

Tuy vậy, các chuyên gia khác lại khẳng định: “Có khả năng dự báo được gần đúng ngày bức xạ cực đại và mật độ của nó”.

Nhà du hành vũ trụ Liên Xô, Leonov năm 1966 bay lên vũ trụ đã phải mặc một bộ quần áo “siêu trọng lượng” đúc bằng chì. Thế mà ba năm sau, các nhà du hành Mỹ đã “nhảy nhót” trên Mặt trăng, tuyệt nhiên không hề trang bị một bộ đồ “siêu nặng”, thậm chí mà hoàn toàn ngược lại. Phải chăng các chuyên gia Mỹ đã phát minh ra loại vật liệu “siêu nhẹ”, chống lại một cách hiệu quả các bức xạ vũ trụ chết người ấy?

Rồi đột nhiên các nhà nghiên cứu cho biết rằng chính vào thời gian phóng các con tàu Apollo-10, Apollo-11 và Apollo-12 thì các vết đen trên Mặt trời và các hoạt động khác của nó đang ở cực đại. Theo lý thuyết chung đã được thừa nhận thì thì chu kỳ thứ 20 của Mặt trời kéo dài từ tháng 12/1968 đến 12/1969. Trong thời gian này, các con tàu Apollo-8, Apollo-9, Apollo-10, Apollo-11 và Apollo-12 giả định là đều bay ra khỏi giới hạn của vùng bảo vệ của vành đai Van Allen và hoạt động ở khoảng không gian xung quanh Mặt trăng.

Việc nghiên cứu đồ thị hoạt động hàng tháng của Mặt trời cho thấy là có một vụ chớp loé duy nhất – đó là hiện tượng ngẫu nhiên xảy ra tự phát trong một chu kỳ kéo dài 11 năm. Ở giai đoạn chu kỳ hoat động yếu có nhiều vụ chớp rất ngắn và ở thời kỳ hoạt động mạnh thì số vụ chớp lại không đáng kể. Điều quan trọng là những vụ chớp loé rất mạnh có thể xảy ra vào bất cứ thời gian nào của chu kỳ.

Trong “chương trình Apollo”, các nhà du hành Mỹ đã ở trong không gian cực kỳ nguy hiểm ấy trong 60 ngày. Bức xạ từ những vụ chớp trên mặt trời không dự đoán được tới Trái đất và Mặt trăng không dưới 15 phút. Để bảo về khỏi sự nguy hiểm của chúng chỉ có thể được che chắn trong các contenơ bằng chì. Nếu quả thật tên lửa của Mỹ có thể đưa các tải trọng lớn lên vũ trụ thì sao họ lại chỉ chế tạo các khoang trợ sinh cho các nhà du hành rất yếu ớt (cụ thể chỉ là 0,1 mm nhôm lá) không chống được bức xạ vũ trụ? Sống và làm việc trong các điều kiện như vậy, các nhà du hành của Mỹ hẳn phải là những chàng trai được đúc không phải bằng sắt mà bằng chì mới đúng.

Thật bất ngờ, một thành viên có thẩm quyền của NASA, nhà vật lý tiếng tăm Bill Maudlin trong bài báo “Tương lai của việc du hành giữa các vì sao” viết một cách công khai: “Những vụ chớp Mặt trời có thể phát ra những proton GeV, chiếm phần lớn các hạt vũ trụ nằm trong cùng khoảng năng lượng nhưng mạnh hơn rất nhiều. Mỗi khi bức xạ mạnh lên là đặc biệt nguy hiểm, vì proton GeVcó thể xuyên qua vật liệu đến vài mét…

Những vụ chớp loé của Mặt trời (hoặc của các vì sao) phóng ra những luồng proton vô cùng nguy hiểm trong khoang không gian giữa các hành tinh, lên tới hàng trăm nghìn roentgen trong vài giờ trên khoảng cách từ Mặt trời đến Trái đất. Liều lượng bức xạ ấy vượt hàng triệu lần so với mức cho phép. Chỉ 500 roentgen trong một thời gian ngắn là đủ chết người rồi”.

Các chàng trai dũng cảm của nước Mỹ, trong những điều kiện như thế chắc chắn phải bị “nướng” y như trong lò phản ứng số 4 của nhà máy điện hạt nhân Chernobyl. “Các hạt vũ trụ nguy hiểm đến từ mọi phía mà bất cứ một sinh vật nào cũng cần một bức tường đặc xít, dày ít nhất là 2 mét che chắn xung quanh”, Maudlin cho biết. Và thực tế khoang trợ sinh vũ trụ mà NASA trình diễn hồi đó đường kính hơn 4 mét lại thêm cả chiều dày của tường bao. Làm thế nào để đưa nó lên vũ trụ?

Tuy nhiên, có thể là NASA đã tìm ra những bộ quần áo bay đầy tin cậy cho các nhà du hành vũ trụ của mình bằng vật liệu siêu nhẹ, bảo vệ được họ khỏi mọi loại bức xạ. Thế nhưng tại sao họ chẳng dùng một lần nào nữa vào mục đích hoà bình? Nếu có, vì sao họ không giúp đỡ Liên Xô khi xảy ra vụ nổ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl? Hay thiết thực hơn nữa vì sao họ không sử dụng vào năm 1979 khi nhà máy điện hạt nhân Mỹ ở Three Miles Island xảy ra sự cố lớn, dẫn tới chảy thanh nhiên liệu của lò phản ứng. Sao họ không dùng những bộ quấn áo bay vũ trụ mà NASA từng nói trị giá không dưới 7 triệu đôla để thủ tiêu những bãi mìn nguyên tử trên lãnh thổ của mình?

Còn nữa...[/JUSTIFY]

tuanhien-button 25-08-2012 10:24 AM

[JUSTIFY]
Vì sao giám đốc NASA phải ‘về vườn’?

Werner von Braun - người chế tạo bom V-1, V-2 cho phát xít Đức bị Mỹ bắt được khi giải phóng Berlin và từ một tù binh chiến tranh trở thành tổng công trình sư số 1 chỉ huy việc thiết kế tên lửa cho NASA. Nhưng vì sao bỗng nhiên ông ta bị sa thải? Và trước ông, vì lý do gì cả đương kim giám đốc của NASA dạn dày kinh nghiệm, James Webb phải về vườn?


Tiến sĩ Toàn lý, giáo sư Alexandr Popov, tác giả cuốn “Người Mỹ lên Mặt trăng: Bước đột phá vĩ đại hay vụ lừa đảo vũ trụ” đưa ra giả thuyết: Mỹ có hai Chương trình Mặt trăng song song với nhau, bay lên Mặt trăng thực sự và “bịa ra” các tư liệu và hình ảnh cho một chuyến bay như thế.

Dưới đây, chúng tôi xin trình bày lập luận và các dẫn chứng của tác giả cuốn sách để chứng minh chuyện đưa người lên Mặt trăng là chuyện bịa. Tôn trọng chân lý khoa học và bảo đảm tính khách quan, chúng tôi chờ đợi và sẵn sàng đưa lên Trang Khoa học những tư liệu và dẫn chứng phản biện trái chiều..


Tổng công trình sư thiết kế chế tạo Saturn-5 Werrner von Braun. Ảnh: NASA.

1. Những người Mỹ đầy tính thực dụng lập tức xem xét Chương trình Mặt trăng của mình theo hai hướng: phương hướng chính là bay thực sự và phương hướng dự phòng là “đóng kịch”. Song song với việc nghiên cứu một chiếc tên lừa thật là “Saturn-5” cũng chuẩn bị một tên lửa mô phỏng.

Có lẽ lúc đầu họ cố gắng theo phương án thứ nhất. Nhưng do những thất bại liên tiếp, khoảng từ năm 1966, phương án “mô phỏng” thắng thế, bắt đầu được chuẩn bị ngày càng tích cực. Từ đó trở đi, kinh phí dành cho phương án thứ nhất bị cắt giảm, dẫn tới giải tán hàng loạt các bộ phận chịu trách nhiệm tiến hành các khâu thực thi việc thiết kế chế tạo thực sự những gì cần thiết cho chuyến bay.

2. Để bảo đảm bí mật cho những việc dựng lên những chuyến bay giả vào năm 1967, người ta đã “gạt ra ngoài lề” tất cả những người đối lập ra khỏi đội ngũ, không để tham gia vào Chương trình bí mật.

Theo Nghị quyết của BCHTƯ ĐCS và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô từ ngày 3/8/1964 thì vào nửa đầu năm 1967 họ sẽ thực hiện kế hoạch bay quanh Mặt trăng. Trong thực tế, Liên Xô đã có những sự chuẩn bị cần thiết để bay, tuy chậm mất 2 năm, vào nửa đầu năm 1969. Mỹ tỏ ra vô cùng bối rối và lo lắng trước một điều chắc chắn sẽ xảy ra. Họ hiểu rất rõ tình thế bất lực của mình, không thể tổ chức một chuyến bay đơn giản dù chỉ ngang qua Mặt trăng thôi, trong khi Liên Xô đã rất gần với một chuyến bay có người lái quanh Mặt trăng”.

Vì thế, năm 1967, người Mỹ dồn toàn bộ sức lực vào việc thực hiện phương án lập hiện trường giả và phải loại trừ tất cả các yếu tố cản trở phương án này, bao gồm cả việc thanh trừng những người không cùng cánh và loại bỏ họ một cách triệt để.


Ngày 16-7-1969, phóng tàu Apollo-11. Ảnh: NASA.

3. Sau vụ phóng thử nghiệm “Saturn-5” vào ngày 4/4/1968 bị thất bại, tất cả công việc chuyển hoàn toàn sang phương án tạo hiện trường giả. Các hoạt động theo hướng chuẩn bị cho các chuyến bay thực sự hoàn toàn bị bãi bỏ.

4. Trong giai đoạn mới, chương trình cần những người lãnh đạo mới để thực hiện mục tiêu một cách cương quyết. Yêu cầu chủ yếu là phải biết cách tiến hành các chiến dịch phô trương và “bịa y như thật” với quy mô chưa từng có. Những người lãnh đạo “già nua”, cứ băn khoăn về việc tiến hành các chuyến bay lên Mặt trăng một cách thực sự cần đưa ra khỏi đội ngũ.

Một số người, kể cả Tổng giám đốc James Edwin Webb, đứng đầu NASA đã 7 năm, dày dạn kinh nghiệm và có mặt từ đầu Chương trình Mặt trăng cũng bị cho là có thể “không có lợi” cho mục tiêu và bị đẩy về hưu. Chức vụ lãnh đạo NASA trong thời kỳ này được trao cho Payne.

Sau sự ra đi của Webb, chưa đấy 2 năm sau đến lượt người lãnh đạo nổi tiếng đã vắt cạn sức mình cho Chương trình Apollo “cũ” là Tổng công trình sư Werrner von Braun phải về vườn. Dự kiến của ông là thực hiện đến cùng chuyến bay thực sự lên Mặt trăng, tuy nhiên điều này không phù hợp với lợi ích của tầng lớp cầm quyền nước Mỹ.


Cựu tổng giám đốc James Edwin Webb.

5. Việc phóng tên lửa khổng lồ Saturn-5 “rất hiệu quả” lên Mặt trăng đã được trình diễn một cách ngoạn mục trước các chuyên gia, khán giả truyền hình trên toàn thế giới. Thực ra, đó là một cuộc phóng tên lửa giả.

Các nhà du hành vũ trụ thể hiện những chuyến diễu hành của họ: bước lên tên lửa để đi vào con tàu mà thực ra nó không hề rời khỏi mặt đất. Các tên lửa “Mặt trăng” thậm chí chẳng lên nổi quỹ đạo quanh Trái đất mà nổ và rơi tan tác xuống Đại Tây dương.

Sau khi dàn dựng chuyến bay lên Mặt trăng, Mỹ dàn dựng tiếp những vụ con tàu từ Mặt trăng trở về và hạ cánh xuống mặt nước tại một vùng ở Thái Bình Dương. Trong suốt thời gian này, NASA dùng tàu “Surveyor-X” để dựng cảnh đỗ trên Mặt trăng và tàu “Orbiter-X” để giả cảnh khi tàu vũ trụ bay quanh Mặt trăng.

Họ chuẩn bị từ trước những phóng sự truyền thanh và truyền hình với nội dung phù hợp với tất cả các tin tức viết sẵn để phát đúng vào thời gian xảy ra sự kiện. Khi các nhà du hành trở về họ tung ra các tư liệu ảnh và phim được làm sẵn tại các xưởng phim dưới mặt đất và thu hình nhờ các vệ tinh tự động của Mặt trăng cũng như các vệ tinh bay quanh mặt đất ở những độ cao xác định.

Sự dàn dựng rất tỉ mỉ chiến dịch này tạo ra những dư luận xã hội rộng rãi về trạng thái phồn vinh và đầy hưng phấn của nước Mỹ, nhằm gây ra cho đối thủ (tức Liên Xô) một áp lực rất lớn về mặt tinh thần.

Quả thật, áp lực tâm lý đè nặng lên các nhà lãnh đạo Liên Xô ở tất cả mọi phía có thể. Những “thành tựu phi thường của Mỹ” tác động mạnh đến tất cả các phương tiện truyền thông, đến giới ngoại giao Liên Xô được mời tới các sân bay vũ trụ của Mỹ, chứng kiến sự xuất phát của các “tên lửa Mặt trăng”. Mỹ còn tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa các nhà du hành vũ trụ Mỹ và Liên Xô để khuếch trương thanh thế.

Một chi tiết không kém phần quan trọng là vào đúng ngày “lần đầu tiên, bàn chân của con người đặt lên Mặt trăng”, họ cho tất cả các báo in màu (đây cũng là một thành công rất mới mẻ của ngành ấn loát). Họ lập ra một kênh liên lạc bất thường, tựa như đường dây nóng “Nhà Trắng – Kremlin” để thông bào “những sự kiện trọng đại” cho lãnh đạo Liên Xô.

Sau đó,họ định hướng lại cho các phương tiện truyền thông làm giảm sự chú ý của dư luận quần chúng đến những chuyến bay của Apollo để bảo đảm lối thoát cho Mỹ ra khỏi vở kịch tạo hiện trường giả này.

8. Sau khi hoàn thành Chương trình Apollo đầy ấn tượng, NASA lại gấp rút phóng Skylab cũng lại là một sản phẩm giả của trạm quỹ đạo hạng nặng. Trạm này được dùng để xoá sạch những nghi ngờ cuối cùng của các chuyên gia Liên Xô về sự tồn tại của tên lửa “Saturn-5” của Mỹ.


Trạm vũ trụ “Skylab” đang bay.

9. Suốt từ thời gian hoàn thành chuyến bay lên Mặt trăng và đến tận bây giờ, các phương tiện tuyên truyền của Mỹ và những người ủng hộ họ ở các nước khác vẫn liên tục tán dương những “thành tựu chinh phục Mặt trăng” đáng hổ thẹn này. Người ta vẫn viết về chúng trên báo chí, phát trên truyền hình và chiếu những bộ phim của NASA ca tụng người Mỹ đã bay lên Mặt trăng.

Nói tóm lại, tác giả cuốn sách “Người Mỹ lên Mặt trăng: Bước đột phá vĩ đại hay vụ lừa đảo vũ trụ” cho rằng: NASA đã thực hiện được một cú lừa ngoạn mục. Theo Alexandr Popov, người Mỹ đã hoàn thành được một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, chỉ được phép mắc các sai lầm ở mức tối thiểu. Những ai hoài nghi phải bỏ công ra phân tích tỉ mỉ một lượng thông tin rất lớn trong một thời gian kéo dài mấy chục năm mới có thể tìm ra sự thật. Vụ lừa đảo đã được nghĩ ra “một cách thiên tài” và thực thi hết sức tinh vi và khéo léo. Phải chăng đó là lý do mà mọi người vẫn tiếp tục tin.

Còn nữa...[/JUSTIFY]

cuahangso1 25-08-2012 10:24 AM

[JUSTIFY]
Số phận những nhà du hành lên Mặt trăng

Vì sao các nhà du hành vũ trụ Mỹ đặt chân lên Mặt trăng lại lập tức rời bỏ NASA, sống gần như ẩn dật, tránh gặp báo chí? Vì sao phải chờ 40 năm sau, Quốc hội Mỹ mới trao Huy chương vàng cho họ? Vì sao khi bị một người đề nghị mình đặt tay lên Kinh thánh để thề rằng mình đã lên Mặt trăng, ông Aldrin không thề mà đáp lại bằng một quả đấm? Những hiện tượng ấy cũng gây nghi ngờ về vụ bay lên Mặt trăng của Mỹ.


Đó là những nghi vấn đặt ra trên báo Nga K.M.ru. Theo báo đó, nhà du hành vũ trụ Liên xô (cũ) Iuri Gagarin sau khi bay lên vũ trụ, trở thành một nhân vật nổi tiếng thế giới.

Thế nhưng với những nhà du hành Mỹ “đặt bước chân đầu tiên của loài người trên Mặt trăng” thì sao? Họ trở về nhà, cô đơn, bất lực nhìn những việc xảy ra và đầy niềm tâm sự. Phải chăng đó là vì trong thời kỳ chiến tranh lạnh hay vì một lý do nào khác?


Các phi hành gia lên Mặt trăng.

Theo K.M.ru, người Mỹ luôn luôn nói rằng Mỹ đã vượt Liên Xô trong cuộc chạy đua lên Mặt trăng. Hollywood cho ra hàng loạt phim về những “siêu nhân”, những cứu tinh của nhân loại, những người bảo vệ nền dân chủ… Theo logic ấy, thì những người lên Mặt trăng phải được lợi dụng triệt để. Hộ phải đưa lên màn hinh vô tuyến hàng năm trời, đi khắp thế giới, tham gia vào những “talk show” không biết mệt, kể lại những câu chuyện mình đã kinh nghiệm, những hiểm nguy đã trải qua, sự dũng cảm đã thể hiện, đã lòng tự hào khi cắm là cờ Mỹ trên Mặt trăng, góp một chiếc bánh xe vào bộ máy tuyên truyền của nước Mỹ.

Song dường như hơn ai hết, những nhân vật “anh hùng” ấy biết mình cần làm gì.

Không những làm vẻ vang cho đất nước, họ còn có cơ hội làm giàu cho cá nhân. Ai cũng biết đối với người Mỹ, thành công bao giờ cũng gắn liền với vinh quang và tiền bạc. Những ngôi sao thể thao và ngôi sao điện ảnh tiếng tăm có khi chỉ một lần đóng clip quảng cáo cũng có thể thu được hàng triệu đôla. Đằng này, những người bay lên Mặt trăng – không nghi ngờ gì nữa – là những “siêu sao”, đồng thời là người đầu tiên giá trị của họ trong quảng cáo còn cao gấp đôi. Ai cũng nghĩ rằng họ sẽ trở thành triệu phú dễ dàng. Song có đúng như vậy không đối với số phận những thành viên của phi hành đoàn tàu Apollo 11?

Amstrong : Điều lạ là Amstrong, người đầu tiên bước lên Mặt trăng lại rời NASA rất nhanh chóng, trở thành giảng viên của Trường đại học và lẩn mình vào bóng tối, rất ít khi xuất hiện trên truyề hình, gần như hoàn toàn tránh mặt các báo chí và sau này đi bán máy tính

Aldrin: Cuộc đời của Aldrin, người thứ hai đặt chân lên Mặt trăng còn khó khăn hơn. Cũng giống như Amstrong, từ Mặt trăng trở về, ông không ở lại NASA nữa. Một thời gian ông vướng vào bệnh nghiện rượu, bị trầm cảm và kiếm sống bằng cách khi thì đi bán ô tô, lúc lại đi giảng bài, diễn thuyết.

Những con người đầu tiên đặt chân lên Mặt trăng là những người anh hùng không điển hình của nước Mỹ, trên ý nghĩa anh hùng phải là biểu tượng cho một nước Mỹ phồn vinh, luôn luôn xuất hiện và thu nhập nhiều triệu đôla bằng tài năng của mình. Còn họ có thể coi là những người bất hạnh, phải rời bỏ nghề nghiệp ở lứa tuổi đang phát triển nhất (khoảng 40) và những năm tháng còn lại của cuộc đời sống vô vị ở một nơi nào hẻo lánh đó, cố gắng để khỏi rơi một lần nữa vào tâm điểm chú ý của xã hội.

Collins: Michael Collins, người thứ ba trong êkip Apollo-11, khác với Amstrong và Aldrin, không đặt chân lên Mặt trăng mà ở lại lái con tàu bay vòng quanh, bảo đảm sự tiếp xúc với mođun Mặt trăng và đồng đội, số phận ra sao ?. Chắc mọi người đều đoán ngay ra được, ông cũng từ giã NASA hầu như ngay lập tức vào năm 1969. Sau đó, ông học về kinh doanh và những năm 1980, ông lập ra một công ty riêng.


Phi hành đoàn trên tàu Apollo-11 nhiều năm sau.

Một điều lạ lùng nữa là họ không được nước Mỹ tri ân ngay như những người con anh hùng của mình. Mãi đên năm 2009,nghĩa là đúng 40 năm sau ngày cắm cờ Mỹ lên Mặt trăng,họ mới được huy chương vàng của Quốc hội. Phải chăng cần bấy nhiêu năm, thấy mọi việc đều an toàn rồi người ta mới được trao tặng. Hãy nhớ lại răng Iuri Gagarin được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô xủa Xô viết tối cao từ ngày 14 Tháng tư năm 1961.Sau chuyến bay, ông đã đi vòng quanh thế giới,gặp gỡ nhà lãnh đạo các nước, những nhân vật nổi tiếng, những người dân thường, mỗi ngày hàng chục cuộc gặp như vậy.

Nhưng nhà du hành “Mặt trăng” Mỹ luôn luôn tìm các trốn tránh những cái nhìn lạ lẫm. Thật trái ngược với những nhà du hành vũ trụ Liên Xô.

Dù sao đi nữa thì Aldrin,sau khi vượt được những khó khăn trong cuộc sống,cũng bắt đầu trả lời phỏng vấn và tham gia hội thảo về những đề tài vũ trụ. Nhưng không may, ông mắc vào một vụ scandal lớn. Chẳng là vào năm 2002, khi ông đã ở tuổi 72, một người vốn không tin vào việc lên Mặt trăng là có thực tên là Bart Sibrel yêu cầu ông đặt tay quyển Kinh thánh và thề rằng mình đã từng lên Mặt trăng. Nhà cựu du hành vũ trụ không chịu thề. Sibrel bèn gọi Aldrin là “tên hèn nhát” và “kẻ lừa dối”. Thay vì câu trả lời, Aldrin tống thẳng một quả đấm vào quai hàm đối thủ.

Sự thât có thể như vậy ư? Rất mong nhận được thông tin và phản hồi của độc giả mọi nơi.

Còn nữa...[/JUSTIFY]

ld-py 25-08-2012 10:24 AM

[JUSTIFY]
Liên Xô biết sự thực nhưng im lặng?

Việc Mỹ 6 lần chính thức đặt chân lên Mặt trăng là một chuyện “kỳ lạ” và nhiều người cho là chuyện bịa đặt, thậm chí báo Pravda của Nga gọi đây là “vụ lừa bịp thế kỷ”. Thế nhưng vì quyền lợi kinh tế và muốn dùng như một con bài để gây sức ép với Mỹ những khi cần nên Liên Xô đã không nói ra.


Qua một loạt bài viết trên KM.ru đã được trích giới thiệu trong các kỳ trước, rõ ràng, chuyện động trời Mỹ đưa người lên Mặt trăng ,tuy việc dàn dựng hết sức khôn khéo, kín kẽ nhưng vẫn có nhiều sơ hở. Chẳng lẽ, đối thủ của Mỹ là Liên Xô (cũ) - người hiểu hơn ai hết những khó khăn phải vượt qua để lên được Mặt trăng và thực lực “đồng nghiệp” của mình đến đâu - lại chẳng một chút nghi ngờ gì hay sao?

Theo lẽ thông thường người ta chờ đợi kẻ cạnh tranh chủ yếu trong cuộc chạy đua lên Mặt trăng (tức Liên Xô) phải xét nét từng chi tiết nhỏ nhất và phân tích hết sức kỹ lưỡng mọi khía cạnh đúng, sai mới quyết định chấp nhận thành tích này của đối thủ. Bây giờ mới lật lại là quá muộn màng vì đây là một “nghi án” xày ra đã quá lâu, không nhân chứng vật chứng, và cũng chẳng ai hiểu được thực tế nó đã diễn ra như thế nào. Thế nhưng cái bóng của sự nghi ngờ luôn luôn lởn vởn, ám ảnh mọi người.


Аlexay Leonovv đi ra khoảng kông gian vũ trụ.

Năm tháng trôi qua. Rồi những thập kỷ cũng trôi qua. Những mối nghi ngờ, thắc mắc và cho là chuyện bịa đặt đã được viết cả thành sách và nhiều câu hỏi được đặt ra song cho đến tận ngày hôm nay, xã hội vẫn chưa hề nhận được những câu trả lời thuyết phục. Sự im lặng vẫn bao trùm.

Nhiều người đã chán nản, muốn buông xuôi, cho qua, không bới móc lại làm gì cho mất thời giờ. Chỉ còn lại điều cuối cùng, đó là “vì sao” và “để làm gì” mà Liên Xô chưa bao giờ chính thức lên tiếng.

Thực ra, chương trình Mặt trăng của Mỹ chẳng hiểu sao lại trùng với thời điểm kết thúc cuộc chiến tranh lạnh, ngòi nổ đang được tháo, quan hệ với Mỹ và thế giới phương Tây đã ấm lên, Liên Xô thể hiện sự hoà hoãn, thay đổi khá nhiều trong chính sách đối ngoại. Để thực hiện chính sách ấy, họ phải nhân nhượng rất nhiều điều với thế giới phương Tây.

Những lý do để các nhà lãnh đạo thời đó theo đuổi có thể là như sau:

Trước hết, việc chạy đua vào vũ trụ, chủ yếu là Chương trình Mặt trăng quá tốn kém. Nếu từ bỏ chương trình này họ sẽ tiết kiệm cho nền kinh tế đất nước hàng tỷ rúp không thật cần thiết trong khi ngân sách đang gặp khó khăn. Sau các chuyến bay của những con tàu không người lái và đưa lên Mặt trăng những thiết bị tự động, họ thấy trên đó chẳng có gì đặc biệt, và nếu có đi chăng nữa thì cũng chưa sử dụng được vào việc gì trước mắt.

Lúc này, lệnh cấm vận đối với Liên Xô vừa được dỡ bỏ, dầu mỏ của Liên Xô đã được chuyển đến các nước Tây Âu và Liên Xô đang cố gắng tìm cách thâm nhập vào thị trường khí đốt, là thị trường mà cho đến tận ngày nay vẫn tiếp tục duy trì một cách thuận lợi. Liên Xô lại vừa đạt được một hiệp định với Mỹ là nước này sẽ cung cấp cho Liên Xô lượng lớn ngũ cốc với giá thấp hơn giá trung bình của thế giới và ở điểm này, người Mỹ đã chịu thiệt thòi.

Nhà nghiên cứu lịch sử cuộc chạy đua lên Mặt trăng của Mỹ là R. René đã viết: “Về vấn đề này có nhiều câu hỏi đã và sẽ được đặt ra đều có thể được trả lời một cách logic: Nếu quả thật chúng tôi không bay lên Mặt trăng thì tại sao Liên Xô không vạch trần việc giả mạo này? Hoặc họ không phát hiện?

Tôi có một vài lý giải về điều này. Trong khi quân đội Mỹ đang tham chiến ở Việt Nam và những nước khác ở Đông Nam Á, chúng ta lại bán hàng chục triệu tấn ngũ cốc cho Liên Xô với giá “siêu rẻ”. Ngày 8 /7/1972, chính phủ Mỹ đã gây sốc cho toàn thế giới, khi tuyên bố bán cho Liên Xô 1/4 toàn bộ vụ thu hoạch với giá cố định 1,63 đôla một bushel (1bushel = 36,4 lít, đơn vị đo ngũ cốc), như vậy Liên Xô đã mua rẻ hơn giá thị trường 10 đến 20%. Các bạn hãy đoán xem, ai phải chịu thiệt thòi về sự chênh lệch ấy? Rõ ràng là những người dân đóng thuế của chúng ta. Giá bánh mì và thịt ở Mỹ bỗng tăng vọt lên, phản ảnh sự thiếu hụt ngũ cốc tại Mỹ. Chúng ta đã trả giá cho việc bay lên Mặt trăng bằng những đồng kôpếch. Song thị trường chứng khoán của chúng ta tăng trưởng. Uy tín của Mỹ lên cao. Trong trường hợp này, đúng là “mục tiêu biện minh cho phương tiện”.


Năm 1961,N.S. Khrusev gặp J, Kennedy.

Người ta còn kể đến việc các công ty phương Tây đã xây dựng cho Liên Xô các nhà mày hoá chất để đối lấy thành phẩm của chúng, có nghĩa là Liên Xô đã nhận được những xí nghiệp hiện đại, mà không phải đầu tư lấy một kôpếch. Với sự tham gia tích cực của Mỹ, Liên Xô đã xây dựng nhà máy ô tô khổng lồ “KamA3” và nhiều thứ khác nữa. Những lợi ích kinh tế đó lên tới hàng chục tỉ đôla mỗi năm.

Trước đó Liên Xô đã phải bỏ ra 5 tỷ đôla trong 10 năm để chi cho tên lửa Mặt trăng “N-1”.Theo quan điểm kinh tế thuần tuý, việc từ bỏ Chương trình Mặt trăng cùng với tên lửa “N-1” đã được hoàn vốn, nếu xét về lợi ích kinh tế thì tương đương.

Sự đối đầu về quân sự, chiến tranh lạnh và mối đe doạ thường xuyên của thảm họa hạt nhân đã đi vào quá khứ. Hiệp định thượng đỉnh về giải trừ vũ khí Helsinki nâm 1975 đã khẳng tịnh đính giữ nguyên các đường biên giới đã vạch ra ở châu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Dường như bước vào thời kỳ Hoà bình vĩnh viễn giữa Đông và Tây.

Ngoài ra, chấp nhận im lặng trong vụ lừa bịp của Chương trình Mặt trăng của Mỹ, các nhà lãnh đạo Liên Xô còn có thể gây sức ép lên đối thủ chinh trị của mình bằng mối de dọa tiết lộ “vụ lừa bịp thế kỷ” bất cứ lúc nào.

Chính sự thành công quá lớn trong quan hệ đối ngoại của Liên Xô lúc đó cũng bị giời bình luận quốc tề coi là một sự “bất thường”, song thực ra có nguyên nhân của nó: khi hai cường quốc vũ trụ đã thoả thuận ngầm được với nhau… Dường như bên cạnh đó, Mỹ cũng nắm một bí mật khác để không chế Liên Xô, đổi lấy sự im lặng về vụ lên Mặt trăng của Mỹ- phải chăng đó là sự thật về cái chết của Stalin.

Còn nữa...[/JUSTIFY]

qnkha 25-08-2012 10:24 AM

[JUSTIFY]
Mỹ đã lên Mặt trăng: Lý lẽ biện minh

Một số chuyên gia Mỹ đã lên tiếng phản bác một số cáo buộc phổ biến nhất. Họ đưa ra lời giải thích cho những điểm "bất thường" trong các bức ảnh chụp được coi là bằng chứng cho cuộc đổ bộ lịch sử.


Mặc dù, đã hơn 40 năm kể từ khi nhà du hành vũ trụ Mỹ Neil Armstrong trở thành người đầu tiên trên thế giới đặt chân lên mặt trăng, nhiều nhà lý luận theo "chủ thuyết âm mưu" cho đến nay vẫn khăng khăng rằng việc tàu Apollo hạ cánh xuống mặt trăng chỉ là một trò bịp bợm tinh vi.

Sau đây là những lời giải thích của một số chuyên gia Mỹ.

Cờ bay phấp phới trong môi trường không khí quyển của mặt trăng?


Cuộc đổ bộ mặt trăng của tàu Apollo 11 từng bị nghi là giả mạo vì quốc kỳ Mỹ dường như "đang tung bay trong cơn gió nhẹ" trong các đoạn video và bức ảnh được cho là chụp trên bề mặt trăng thiếu không khí. Tuy nhiên, các chuyên gia giải thích rằng, lá cờ có một lỗ cắm thanh xuyên ngang gờ trên cùng để có thể trải rộng khi chụp ảnh và không bị rủ xuống cột cờ. Các phi hành gia Apollo 11 đã vô tình không trải căng lá cờ hết thanh giữ nằm ngang và để lại nhiều vết nhăn gập trên quốc kỳ, tạo ấn tượng khi chụp hình như lá cờ đang tung bay.

Ai chụp ảnh cho các phi hành gia?


Hình Neil Armstrong và tàu đổ bộ mặt trăng Eagle của Apollo 11 được phản chiếu trong tấm kính che mặt của phi hành gia Buzz Aldrin trong một bức ảnh nổi tiếng được chụp trong cuộc đổ bộ của tàu Apollo 11 tháng 7/1969. Bạn có thể nói đây là sự dàn dựng cảnh vì chỉ có hai phi hành gia đi bộ thám hiểm mặt trăng tại thời điểm đó nhưng trong các bức ảnh như trên, hình cả hai đều xuất hiện rõ nét khi không có dấu hiệu của camera. Vậy ai đã chụp bức ảnh?

Câu trả lời được đưa ra là, các camera được gắn trên ngực của các phi hành gia. Hơn thế nữa, trước khi tham gia chuyến bay thám hiểm mặt trăng, họ đều đã được huấn luyện và tập dượt kỹ lưỡng cách chụp những bức ảnh đẹp về miền đất mới này bằng các camera chuyên dụng tốt nhất.

Các ngôi sao biến đi đâu?


"Lạy Chúa tôi, bầu trời đầy sao!", là câu cảm thán phát ra từ miệng nhân vật Dave Bowman trong tác phẩm nổi tiếng của Arthur C. Clarke (2001) khi đối diện với sự rộng lớn của không gian. Nhiều người nghi ngờ bức ảnh trên của NASA là "hàng giả" vì các nhà du hành vũ trụ Mỹ đã không thốt lên câu cảm thán như vậy khi đặt chân lên mặt trăng và rõ ràng là không thấy xuất hiện bất kỳ ngôi sao nào trên cảnh nền đen ngòm trong những bức hình họ chụp mặc dù vũ trụ đầy sao.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia Mỹ, các ngôi sao vẫn ở nguyên chỗ nhưng chúng quá mờ nhạt. Bề mặt mặt trăng phản xạ ánh sáng mặt trời và điều đó khiến rất khó để nhìn thấy các ngôi sao. Hơn thế nữa, các phi hành gia ghi lại hình ảnh cuộc thám hiểm mặt trăng của họ bằng cách thiết lập chế độ chụp nhanh, khiến ánh sáng nền thu được khá hạn chế. "Với tốc độ chụp ảnh 1/150 hoặc 1/250 của một giây thì các ngôi sao không thể xuất hiện", chuyên gia thiên văn học Phil Plait - chủ tịch Quỹ giáo dục James Randi - nhấn mạnh.

Thiết bị đổ bộ không gây xáo trộn bề mặt trăng?


Thiết bị đổ bộ mặt trăng có tên gọi Eagle của phi hành đoàn Apollo 11 tọa lạc một cách yên bình trên bề mặt mặt trăng trong một bức ảnh chụp vài giờ sau khi đáp xuống hành tinh này ngày 20/7/1969. Bức ảnh này trông có vẻ "bất thường" vì thiết bị Eagle dường như đang yên vị trên nền đất tương đối bằng phẳng, không xáo trộn. Theo những người hoài nghi, việc đáp xuống của thiết bị đổ bộ đáng lẽ phải kèm theo một đám mây bụi lớn và hình thành một cái hố dễ thấy.

Các chuyên gia Mỹ biện minh rằng, các động cơ của thiết bị đổ bộ đã được giảm ga ngay trước khi hạ cánh và Eagle đã không bay liệng đủ lâu để tạo thành một lỗ hổng trên bề mặt mặt trăng hay làm tung bụi mù mịt. "Các bộ phim khoa học viễn tưởng thường khắc họa cảnh náo động lớn khi tàu vũ trụ hạ cánh nhưng việc đó không xảy ra trên mặt trăng. Điều này cũng sẽ không xảy ra trong bất kỳ cuộc đổ bộ nào của tàu vũ trụ xuống mặt trăng trong tương lai", Roger Launius - nhà sử gia hàng không vũ trụ thuộc Viện bảo tàng Vũ trụ và hàng không quốc Smithsonian tại Washington, khẳng định.

Sự xuất hiện của bóng râm kỳ lạ?


Một bức ảnh về cuộc đổ bộ của phi hành đoàn Apollo 11 cho thấy, nhà du hành vũ trụ Buzz Aldrin đứng trên bệ đỡ bậc thang của thiết bị Eagle. Đầu gối cong gập của Aldri cho thấy ông sắp sửa nhảy lên bậc thang kế tiếp. Nhiều người hoài nghi bức ảnh này vì Aldrin đứng trong bóng của cái thang nhưng vẫn được khắc họa rất rõ. Những người cáo buộc Mỹ "bịp bợm" quả quyết, rất nhiều bóng râm trong các bức ảnh chụp sứ mệnh Apollo 11 trông rất lạ. Một số bóng râm dường như không tương đồng và một số đối tượng trong bóng râm có vẻ được chiếu sáng tốt, cho thấy ánh sáng xuất phát từ nhiều nguồn đáng ngờ như các camera trong studio.

Lời giải thích của các chuyên gia Mỹ là, quả thực có nhiều nguồn chiếu sáng. "Bạn có mặt trời, ánh sáng phản xạ của trái đất, ánh sáng hắt ra từ thiết bị đổ bộ mặt trăng, các bộ đồ du hành vũ trụ và cả bề mặt trăng. Một điểm quan trọng nữa cần ghi nhớ là bề mặt mặt trăng không bằng phẳng. Nếu một đối tượng ở trong một chiều dốc, bạn sẽ có một cái bóng khác hẳn so với một đối tượng ngay cạnh đó, trên một bề mặt bằng phẳng", nhà sử học Launius nói.

Vết ủng hằn quá rõ trên nền đất khô cằn?


Các đường tương phản của một vết ủng xuất hiện khi phi hành gia Buzz Aldrin nhấc chân để ghi lại một hình ảnh phục vụ nghiên cứu các đặc tính của đất trên mặt trăng. Các bức ảnh mà phi hành đoàn Apollo 11 cung cấp cho thấy vô số vết ủng rõ nét bị bỏ lại phía sau khi các phi hành gia dạo chơi trên mặt trăng. Ban có thể nói những bức ảnh kiểu như vậy là giả mạo vì vết chết của các phi hành gia quá rõ nét trên một bề mặt khô cằn. Chúng ta đều biết rằng, vết chân hằn rõ có thể chỉ được hình thành trên cát ướt.

Các chuyên gia Mỹ bác bỏ nghi ngờ trên là vô căn cứ. Theo họ, bụi trên mặt trăng hay còn gọi là "regolith" giống như một chất bột được nghiền mịn. Khi bạn quan sát chúng dưới kính hiển vi, chúng trông gần như tro núi lửa. Vì vậy, khi bạn giẫm lên regolith, chúng có thể nén rất dễ dàng theo hình dạng của đế ủng. Và các dấu vết đó có thể tồn tại vẹn nguyên trong thời gian dài nhờ môi trường không có không khí trên mặt trăng.

Tại sao các phi hành gia không thiệt mạng vì bức xạ?


Nhiều người hoài nghi đặt ra câu hỏi rằng, tại sao các nhà du hành vũ trụ tham gia trên tàu Apollo 11 đã không thiệt mạng trước lượng lớn bức xạ mà họ phải nhận trong quá trình tham gia sứ mệnh thám hiểm mặt trăng. Phần lớn nghi ngờ này liên quan đến sự tồn tại của các vành đai Van Allen - những từ trường bao quanh trái đất, tóm giữ các hạt từ ​​gió mặt trời và theo lý thuyết, khi đi qua những khu vực này sẽ khiến các nhà du hành vũ trụ nhiễm đủ lượng bức xạ gây chết người.

Tuy nhiên, các chuyên gia Mỹ khẳng định thần chết chỉ hỏi thăm khi các phi hành gia lưu lại đủ lâu trong khu vực vành đai Van Allen. Trong khi thực tế, trong các sứ mệnh của tàu Apollo, các phi hành gia chỉ vượt qua khu vực vành đai nguy hiểm trong khoảng một giờ đồng hồ. Hơn thế nữa, các tàu vũ trụ có vỏ bọc kim loại chuyên dụng đã bảo vệ họ khỏi hầu hết các bức xạ.

Mọi thứ không tan chảy trong nhiệt độ 138 độ C?


Nhiệt độ bề mặt của mặt trăng lên tới 138 độ C. Không có gì hoạt động được ở mức nhiệt độ đó, ví dụ như phim sử dụng để quay phim và chụp ảnh có thể sẽ tan chảy. Vậy tại sao, phi hành đoàn Apollo 11 vẫn thu được những thước phim và các bức ảnh khá tốt khi đổ bộ lên mặt trăng? Câu trả lời là, các phi hành gia cùng các thiết bị và phim ghi hình đều được bao bọc trong các lớp hoặc hộp bảo vệ công nghệ cao. Thêm vào đó, phi hành đoàn đổ bộ lúc bình minh của mặt trăng nên nhiệt độ xuống thấp đáng kể.

Ai ghi hình các phi hành gia rời mặt trăng?


Một trong những nghi ngờ điển hình đối với cuộc đổ bộ mặt trăng của phi hành đoàn Apollo 11 là đoạn băng ghi hình và các bức ảnh chụp họ rời khỏi hành tinh này? Ai là tác giả của những thước phim ấy? Theo NASA, tất cả là sản phẩm của một camera được bỏ lại trên bề mặt trăng và được điều khiển từ dưới trái đất.

Các vật bỏ lại trên mặt trăng biến đi đâu?


Khi hai phi hành gia Armstrong và Aldrin của tàu Apollo 11 cất cánh rời mặt trăng vào tháng 7/1969, họ để phía sau một phần của thiết bị đổ bộ Eagle, quốc kỳ Mỹ cũng như một số dụng cụ và vật lưu niệm khác, kể cả máy đo địa chấn mà Aldrin đang điều chỉnh trong hình ở trên. Theo những người hoài nghi, với các công cụ hiện đại ngày nay như kính viễn vọng không gian Hubble, có khả năng quan sát những vùng xa xôi của vũ trụ, chắc chắn các nhà khoa học có thể nhìn thấy những vật khác nhau vẫn còn trên mặt trăng. Tuy nhiên, không có bức ảnh nào về các vật thể như vậy từng tồn tại.

Các chuyên gia Mỹ phản biện rằng, cho tới tận ngày nay, không có bất kỳ kính thiên văn nào trên trái đất hoặc trong không gian có sức mạnh quan sát tới như vậy. Theo họ, chúng ta chỉ có thể tính toán và phỏng đoán, vì ngay cả với kính viễn vọng lớn nhất trên trái đất, vật thể nhỏ nhất mà chúng ta có thể nhìn thấy trên bề mặt mặt trăng phải có kích thước lớn hơn một ngôi nhà.

Thay cho lời kết

Nhà chức trách Mỹ cũng như nhiều hãng truyền thông và dư luận phương Tây từ lâu ra sức bảo vệ các lý lẽ phản biện mọi nghi ngờ điển hình đối với các bằng chứng hình ảnh về sứ mệnh thám hiểm mặt trăng Apollo 11. Họ cho rằng, các cáo buộc Mỹ tạo dựng "vụ lừa đảo thế kỷ" là vô căn cứ và nhằm phủ nhận thắng lợi của Mỹ trong cuộc chạy đua vào không gian với Liên Xô trước đây cũng như sự thành công của chương trình mặt trăng mà Mỹ theo đuổi.

Tuy nhiên, chính các học giả và nhiều người Mỹ cũng bị sốc và thừa nhận không hiểu vì sao cách đây vài năm, NASA thông báo một tin buồn, đầy lạ lùng rằng họ đã mất toàn bộ tư liệu ảnh và phim gốc về cuộc đổ bộ lịch sử. Mọi việc càng trở nên khó hiểu khi NASA đưa ra lời giải thích sau đó rằng các tấm phim nguyên bản quý giá ấy đã bị xóa đi để sử dụng lại hoặc không thể sử dụng được nữa vì bị hư hỏng do bảo quản quá lâu trong kho.

Dư luận lại xuất hiện vô số phỏng đoán cho hành động kỳ quặc của NASA và một lần nữa, đây lại lại căn cứ bồi đắp cho những nghi ngờ người Mỹ thực tế chưa từng đặt chân lên mặt trăng.

Có lẽ, chỉ những người liên quan trực tiếp đến các sứ mệnh của tàu Apollo như Neil Armstrong mới biết sự thực về cuộc thám hiểm mặt trăng của Mỹ.

Nguồn: Vietnamnet[/JUSTIFY]


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 07:47 PM

© 2008 - 2025 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.