furniweb
27-08-2012, 09:50 AM
Trong KL mỗi nguyên tử liên kết với 8 hoặc 12 nguyên tử khác nhưng số electron hóa trị của nguyên tử lại chỉ có hạn, không đủ để tạo nên số lớn lk cộng hóa trị như thế. Kiểu lk hóa học đặc biệt trong tinh thể KL gọi là liên kết kim loại. Có 2 mô hình lí thuyết về lk KL là mô hình "biển electron" và mô hình obitan phân tử không định chỗ.
I. Mô hình "biển electron"
Tinh thể KL bao gồm các cation KL nằm tại các nút mạng lưới và những e chuyển động tự do trong toàn tinh thể coi như biển e. Do chuyển động tự do, các e trở thành e chung của các nguyên tử KL trong tinh thể và có vai trò như chất kết dính các cation KL với nhau. Như vậy nằm tại các nút mạng lưới có thể là cation hoặc nguyên tử KL.
Theo mô hình "biển e" lk KL giống lk cộng hóa trị ở chỗ những e chung giữa các nguyên tử đều là e hóa trị nhưng khác là trong lk cộng hóa trị chúng chỉ được dùng chung từng cặp một ở giữa 2 nguyên tử lk với nhau. Mặt khác, lk KL giống với lk ion ở chỗ là do tương tác tĩnh điện gây nên, nhưng khác là trong lk ion, cation và anion hút nhau còn trong KL, cation hút 1 tập hợp những e chuyển động tự do.
Mô hình "biển e" cho phép giải thích dễ dàng những tính chất vật lí đặc trưng của KL như ánh kim, dẫn nhiệt, dẫn điện và dẻo dai. Ánh kim của KL dạng thỏi hay tấm là kết quả của sự phản chiếu những tia sáng vùng trông thấy gây nên bởi những e tự do chuyển động trong tinh thể. Khi đặt 1 thế hiệu ở 2 đầu dây KL, những e tự do chuyển động thành dòng từ cực âm đến cực dương và nối liền dòng điện, nghĩa là dẫn điện. Chính những e tự do đó truyền năng lượng nhiệt từ những nguyên tử ở phần được đốt nóng của thanh KL sang những nguyên tử ở phần nguội gây nên tính dẫn nhiệt. Sự có mặt của "biển e" giải thích 1 tính chất cơ học rất quan trọng của KL là dễ rèn, dễ dát mỏng và dễ kéo sợi, gọi chung là tính dẻo dai. Khi chịu 1 tác động từ bên ngoài, KL bị biến dạng, những nguyên tử trong tinh thể có thể dời chỗ khỏi nhau theo những lớp tinh thể. Sự dời chỗ này không dẫn đến lực đẩy mạnh giữa các cation KL vì "biển e" luôn tạo màng ngăn cách giữa các cation đó. Vấn đề sẽ khác đi đối với những tinh thể nguyên tử và tinh thể ion. Tác động cơ học ở bên ngoài có thể làm đứt lk cộng hóa trị giữa các lực tĩnh điện và các e hóa trị bị hút chặt vào ion. Tác dụng cơ học bên ngoài làm dời chỗ những lớp ion của tinh thể dẫn đến lực đẩy rất mạnh giữa các ion cùng điện tích nên tinh thể không biến dạng mà vỡ vụn ra.
Tuy nhiên mô hình "biển e" không giải thích được những tính chất vật lí khác của KL như nhiệt độ nóng chảy, nhiệt độ hóa hơi, độ cứng và tỉ khối là những tính chất liên quan đến độ bền của lk KL.
Khó khăn trên đây có thể vượt qua khi vận dụng mô hình obitan phân tử không định chỗ hay còn gọi là thuyết vùng (lần sau viết tiếp nhé!)
I. Mô hình "biển electron"
Tinh thể KL bao gồm các cation KL nằm tại các nút mạng lưới và những e chuyển động tự do trong toàn tinh thể coi như biển e. Do chuyển động tự do, các e trở thành e chung của các nguyên tử KL trong tinh thể và có vai trò như chất kết dính các cation KL với nhau. Như vậy nằm tại các nút mạng lưới có thể là cation hoặc nguyên tử KL.
Theo mô hình "biển e" lk KL giống lk cộng hóa trị ở chỗ những e chung giữa các nguyên tử đều là e hóa trị nhưng khác là trong lk cộng hóa trị chúng chỉ được dùng chung từng cặp một ở giữa 2 nguyên tử lk với nhau. Mặt khác, lk KL giống với lk ion ở chỗ là do tương tác tĩnh điện gây nên, nhưng khác là trong lk ion, cation và anion hút nhau còn trong KL, cation hút 1 tập hợp những e chuyển động tự do.
Mô hình "biển e" cho phép giải thích dễ dàng những tính chất vật lí đặc trưng của KL như ánh kim, dẫn nhiệt, dẫn điện và dẻo dai. Ánh kim của KL dạng thỏi hay tấm là kết quả của sự phản chiếu những tia sáng vùng trông thấy gây nên bởi những e tự do chuyển động trong tinh thể. Khi đặt 1 thế hiệu ở 2 đầu dây KL, những e tự do chuyển động thành dòng từ cực âm đến cực dương và nối liền dòng điện, nghĩa là dẫn điện. Chính những e tự do đó truyền năng lượng nhiệt từ những nguyên tử ở phần được đốt nóng của thanh KL sang những nguyên tử ở phần nguội gây nên tính dẫn nhiệt. Sự có mặt của "biển e" giải thích 1 tính chất cơ học rất quan trọng của KL là dễ rèn, dễ dát mỏng và dễ kéo sợi, gọi chung là tính dẻo dai. Khi chịu 1 tác động từ bên ngoài, KL bị biến dạng, những nguyên tử trong tinh thể có thể dời chỗ khỏi nhau theo những lớp tinh thể. Sự dời chỗ này không dẫn đến lực đẩy mạnh giữa các cation KL vì "biển e" luôn tạo màng ngăn cách giữa các cation đó. Vấn đề sẽ khác đi đối với những tinh thể nguyên tử và tinh thể ion. Tác động cơ học ở bên ngoài có thể làm đứt lk cộng hóa trị giữa các lực tĩnh điện và các e hóa trị bị hút chặt vào ion. Tác dụng cơ học bên ngoài làm dời chỗ những lớp ion của tinh thể dẫn đến lực đẩy rất mạnh giữa các ion cùng điện tích nên tinh thể không biến dạng mà vỡ vụn ra.
Tuy nhiên mô hình "biển e" không giải thích được những tính chất vật lí khác của KL như nhiệt độ nóng chảy, nhiệt độ hóa hơi, độ cứng và tỉ khối là những tính chất liên quan đến độ bền của lk KL.
Khó khăn trên đây có thể vượt qua khi vận dụng mô hình obitan phân tử không định chỗ hay còn gọi là thuyết vùng (lần sau viết tiếp nhé!)